Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2015

Hịch Phây-búc

...Bởi ta nhận ra mình đang sống ở cái thời Internet và mạng xã hội rối ren, loạn lạc; cái thời mà mở máy tính ra là thấy cướp, hiếp, chém giết, lộ hàng; thời mà người ta nổi tiếng chẳng cần tài năng, chỉ cần ăn mặc hở hang đi bán bánh tráng, chỉ cần ngực to, đùi mẩy để lên mạng làm trò, đưa đẩy, khoe hàng; thời mà hot-gơn nhiều hơn lũ khỉ ở Hoa quả sơn, và hotboy thì nhung nhúc như đám người trong công viên nước Hồ Tây ngày miễn phí...
Ta từng tới bữa online, nửa đêm lướt web, đầu đau, tay nhức, mỏi mắt vô cùng, chỉ mong bài post lên được nhiều like, share và còm-men, thì dẫu tay chân rụng rời như vừa hút cỏ, người gầy như cây bạch đàn chết khô chết nỏ, cũng nguyện xin làm.

Ta cũng từng nghe: Quân Kun mặc sịp vàng chổng mông chụp ảnh; Bà Tưng thả rông nhảy ầm ầm trước webcam; Kenny Sang nổ banh trời rồi ngửa mặt cho người đời chê chửi; Lệ Rơi vừa trồng ổi vừa tranh thủ làm MV post lên Phây… Từ xưa, những kẻ bất chấp tất cả để được nổi tiếng đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ an phận trồng ổi, bán quần áo, nắng chạy ra, mưa trú vào, mệt ngồi nghỉ làm điếu thuốc lào, thì đến bao giờ mới nổi?
Ảnh Internet
Ta ở nhà được vợ nuông chiều, không có laptop thì vợ mua cho laptop, không có wifi thì vợ lắp wifi, ra ngoài thì smartphone nhoay nhoáy trên tay, 3G bật cả ngày vì đã dùng gói Max-min 70k của Viettel trọn gói. Về mức độ đầu tư và chịu chơi, so với mấy người kể trên, nào có kém gì?

Để rồi, nhìn một post lượng like hơn chục mà thấy lo, bài đưa lên chỉ vài view lè tè mà thấy thẹn. Đã vậy, bọn cá mập ngoài biển còn ngày đêm rình rập cắn cáp quang. Khi cáp đứt, cấu hình khủng cũng không load được video, latop xịn không tải được status, Iphone 6 plus chính thức trở thành cục gạch không kém, không hơn. Đau xót biết chừng nào?

Nhưng đó là ngày xưa thôi, chứ giờ ta sợ rồi! Bởi ta nhận ra mình đang sống ở cái thời Internet và mạng xã hội rối ren, loạn lạc; cái thời mà mở máy tính ra là thấy cướp, hiếp, chém giết, lộ hàng; thời mà người ta nổi tiếng chẳng cần tài năng, chỉ cần ăn mặc hở hang đi bán bánh tráng, chỉ cần ngực to, đùi mẩy để lên mạng làm trò, đưa đẩy, khoe hàng; thời mà hot-gơn nhiều hơn lũ khỉ ở Hoa quả sơn, và hotboy thì nhung nhúc như đám người trong công viên nước Hồ Tây ngày miễn phí; cái thời mà một clip sex post lên Phây đủ sức khiến cô nữ sinh 15 tuổi phải từ giã cõi đời; cái thời mà chẳng may đi máy bay nằm ngủ dạng háng là lập tức bị người đời nhảy vào chửi cho tơi bời…

Ta sợ rồi! Và ta cũng biết mình không thể nổi tiếng được theo cách của những người trên đây, bởi mặt ta không đủ dày, và ta vẫn còn liêm sỉ.

Võ Tòng Đánh Mèo

Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2015

Trang download phần mềm SLTNNLC

STTPhiên bảnNgày cập nhậtDowload
01Ver 1.12.0118/12/2015Dowload
Row 2, Cell 1Row 2, Cell 2Row 2, Cell 3Dowload
Row 3, Cell 1Row 3, Cell 2Row 3, Cell 3Row 3, Cell 4
Row 4, Cell 1Row 4, Cell 2Row 4, Cell 3Row 4, Cell 4
Row 5, Cell 1Row 5, Cell 2Row 5, Cell 3Row 5, Cell 4

Chương trình quản lý số liệu về tài nguyên nước Lai Châu

Phần mềm “Số liệu tài nguyên nước Lai Châu” nhằm mục đích:
- Lưu trữ dữ liệu về các đối tượng khai thác, sử dụng nước cho các mục đích khác nhau; các công trình xả nước thải, thăm dò, khai thác khác cũng như các số liệu về nguồn nước trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Giúp quá trình quản lý, truy xuất, kiểm tra dữ liệu thuận tiện, nhanh chóng, khoa học và hiện đại.
- Khi hoàn thiện xây dựng giai đoạn 2, chương trình có thể áp dụng cho các cơ quan quản lý để trực tiếp sử dụng cập nhật, báo cáo số liệu giúp quá trình quản lý thuận tiện, nhanh chóng và chuẩn xác, tránh thiếu sót và trùng lắp.
Nguyên tắc dữ liệu phần mềm là:
- Lưu dữ liệu tập trung;
- Đảm bảo toàn vẹn dữ liệu;
- Đảm bảo khả năng truy xuất đồng thời của nhiều người dùng trên dữ liệu;
- Đảm bảo thời gian truy xuất nhanh nhất;
- Bảo mật dữ liệu;
- Trao đổi dữ liệu giữa các hệ thống khác nhau
Phần mềm viết trên ngôn ngữ VB.net phiên bản 2008 bởi Đoàn Ngọc Tứ.
Để cập nhật phiên bản mới nhất, xin truy cập tại tại đây!

  

Thứ Ba, 15 tháng 12, 2015

Mác bê tông là gì

Định nghĩa mác bê tông: Nhiều người không hiểu mác bê tông là gì và làm như thế nào để có mác bê tông như mong muốn.Dưới đây là định nghĩa chuẩn về mác bê tông và cách trộn để được hỗn hợp bê tông như mong muốn.
Định nghĩa Mác bê tông.
Tuỳ từng nước với điều kiện thời tiết khác nhau, với yêu cầu xây dựng khác nhau mà quy định kích thước của các mác bê tông là khác nhau. Để các tiêu chuẩn được tương đương thì chúng ta dùng hệ số quy đổi.

Có rất nhiều cách xác định mác bê tông đạt tiêu chuẩn. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi đưa ra cách xác định mác bê tông đơn giản nhất. Để xác định mỗi mác bê tông thực tế, tối thiểu cần phải có một tổ mẫu lấy tại hiện trường, gồm 3 mẫu bê tông đồng nhất (về vị trí và cách thức lấy mẫu, về điều kiện dưỡng hộ). Đối với các kết cấu lớn, các tổ mẫu trên cùng một kết cấu phải ở những vị trí khác nhau và số lượng của chúng đủ lớn để mang tính đại diện được cho toàn bộ kết cấu đó. Giá trị trung bình của ứng suất nén tại thời điểm phá hủy (do nén mẫu) của cả 3 mẫu trong tổ mẫu, được lấy để xác định mác bê tông (tuổi 28 ngày). Nếu thời điểm nén tổ mẫu không phải là 28 ngày sau khi bê tông ninh kết(thường là 3 hay 7 ngày sau), thì mác bê tông được xác định gián tiếp qua biểu đồ phát triển cường độ bê tông chuẩn tương ứng. Các kết quả nén mẫu ở tuổi 3 hay 7 ngày là các kết quả kiểm tra nhanh, chưa chính thức. Kết quả nén mẫu ở tuổi 28 ngày mới được coi là mác của bê tông thực tế. Kết cấu bê tông tại chỗ được coi là đạt yêu cầu về mác thiết kế (quy định trong thiết kế) khi giá trị trung bình của từng tổ mẫu (mác thực tế) không được nhỏ hơn mác thiết kế, nhưng đồng thời phải không có mẫu nào trong các tổ mẫu có kết quả thí nghiệm dưới 85 % mác thiết kế.

Khi nói đến mác bê tông là nói đến khả năng chịu nén của mẫu bê tông. Theo tiêu chuẩn xây dựng hiện hành của Việt Nam (TCVN 3105:1993, TCVN 4453:1995), mẫu dùng để đo cường độ là một mẫu bê tông hình lập phương có kích thước 150 mm × 150 mm × 150 mm, được dưỡng hộ trong điều kiện tiêu chuẩn quy định trong TCVN 3105:1993, trong thời gian 28 ngày sau khi bê tông ninh kết. Sau đó được đưa vào máy nén để đo ứng suất nén phá hủy mẫu (qua đó xác định được cường độ chịu nén của bê tông), đơn vị tính bằng MPa (N/mm²) hoặc daN/cm² (kg/cm²).

Theo quy định về kết cấu xây dựng thì bê tông phải chịu được nhiều tác động khác nhau: chịu nén, uốn, kéo, trượt, trong đó chịu nén là ưu thế lớn nhất của bê tông. Do đó, người ta thường lấy cường độ chịu nén là chỉ tiêu đặc trưng để đánh giá chất lượng bê tông, gọi là mác bê tông

Mác bê tông được phân thành nhiều loại từ  100, 150, 200, 250, 300, 400, 500 và 600. Khi nói rằng mác bê tông 200 chính là nói tới ứng suất nén phá hủy của mẫu bê tông kích thước tiêu chuẩn, được dưỡng hộ trong điều kiện tiêu chuẩn, được nén ở tuổi 28 ngày, đạt 200 kG/cm². Còn cường độ chịu nén tính toán của bê tông mác 200 chỉ là 90 kG/cm² (được lấy để tính toán thiết kế kết cấu bê tông theo trạng thái giới hạn thứ nhất). Ngày nay với công ngệ phát triển người ta có thể chế tạo bê tông có cường độ rất cao lên đến 1000 kg/cm².

Tổng hợp: Phan Vũ

Thứ Hai, 7 tháng 12, 2015

Thư gửi đồng bào và cán bộ Lai Châu (12-12-1953)

Thân ái gửi đồng bào và cán bộ Lai Châu,

Đã hơn 80 nǎm nay, đồng bào tỉnh nhà bị thực dân Pháp và Việt gian phản động áp bức, bóc lột, lừa bịp; chưa hề được hưởng hạnh phúc, độc lập, tự do như đồng bào các nơi khác. Tôi và Chính phủ luôn luôn thương xót đồng bào.

Ngày nay đồng bào đã được bộ đội Chính phủ giải phóng khỏi ách thực dân và phản động; tôi thay mặt Chính phủ thân ái gửi lời hỏi thǎm đồng bào và cán bộ.

Sau đây tôi có mấy lời dặn đồng bào và cán bộ ghi nhớ và làm cho đúng:

1- Đoàn kết thân ái giúp đỡ lẫn nhau.

2- Giúp đỡ bộ đội diệt phỉ, trừ gian, giữ gìn trật tự.

3- Ra sức tǎng gia sản xuất để mọi người được ấm no.

4- Hết sức trung thành với Tổ quốc và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Còn đối với những người trước đây đã lầm đường theo giặc nếu trở về với Tổ quốc thì Chính phủ sẽ khoan hồng.

Cán bộ thì phải thật sự gần gũi giúp đỡ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.

Chúc đồng bào và cán bộ mạnh khoẻ và cố gắng.

Chào thân ái và quyết thắng
Ngày 12 tháng 12 nǎm 1953





Hồ Chí Minh

Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2015

Phân biệt giữa Get và Take

Chúng ta thường nhầm lẫn cách dùng một số trường hợp với get và take, hãy cùng tìm hiểu xem điểm giống và khác nhau giữa chúng nhé!

Take cùng nghĩa với get:
Có 4 thí dụ trong đó get cùng nghĩa với take.

A, Thứ nhất là take sick (take sick thường dùng ở miền Nam Hoa Kỳ, ít dùng) và get sick là hai thí dụ trong đó get và take cùng một nghĩa là nhuốm bịnh.
– He took sick/ill (became ill)=He got sick/ill.
– I hope I don’t take ill before final exams=I hope I don’t get sick before final exams=Tôi hy vọng không bị bịnh trước khi thi cuối khóa.
Còn các trường hợp sau đây take giống hay gần giống nghĩa với get:
-She tried two dresses and took both=Bà ấy thử hai cái áo dài và mua cả hai. (took=got=bought)
-Where did you get that pretty dress?=Bạn mua cái áo dài đẹp ấy ở đâu vậy? (get=buy)
– (Dọa trẻ con) The goblins will get you if you don’t watch out=Yêu tinh sẽ bắt em nếu em không coi chừng. (Get trong câu này có thể thay bằng take, grab, capture).
-The child took the flu=the child got the flu=đứa bé bị cúm (take và get có nghĩa là nhiễm bịnh).
* Trong câu: I took your silence to mean that you agreed, “took” có nghĩa là “understood” hay “interpreted” (tôi thấy bạn yên lặng nên tôi cho rằng bạn đã đồng ý. Trong câu I didn’t get the joke, “get” có nghĩa là “understand”. Tôi không hiểu ý nghĩa của câu khôi hài.
get-va-take

B. Get nghĩa khác với take
– Trả thù, trừng phạt: I’ll get you for this, you bastard (Tên khốn kiếp, ta sẽ trừng phạt mi về chuyện này.
– Nhận được (receive, obtain): I got a letter from my sister this morning=Sáng nay tôi nhận được một lá thư của chị tôi. Who did you hear it from?—I got it from my brother=Ai cho bạn biết tin ấy?–Anh tôi cho tôi biết.
– Nhìn rõ (see better): Come to the window to get a better look at the parade=Hãy lại gần của sổ để thấy cuộc diễn hành rõ hơn.
– Kiếm được (việc làm) (get a job): She’s just got a job at a law firm=Cô ta vừa kiếm được việc làm ở một tổ hợp luật sư.
– Gọi (go and fetch): Get a doctor!=Hãy đi gọi bác sĩ ngay!
– Đón (pick up): I have to get my mother from the station=Tôi phải đi đón má tôi ở trạm xe lửa.
– Trở nên, cảm thấy: Get hungry, get bored (thấy đói, thấy chán, become): As you get older, your memory gets worse=Càng già thì trí nhớ càng kém. My feet are getting cold=Chân tôi đang lạnh.

– Nhờ ai (cause someone to do something for you): He got his sister to help him with his homework=Anh ta nhờ chị anh giúp anh làm bài tập.
– Đến bằng phương tiện nào (arrive at): How did you get here?=Bạn đến đây bằng phương tiện nào? Call me when you get to Washington=Hãy gọi cho tôi khi bạn tới Washington.
Some idioms with get:
– Get up on the wrong side of the bed=Sáng dậy tính tình bẳn gắt, cáu kỉnh.
– Will you get your papers off my desk?=Bạn làm ơn dẹp các giấy tờ bài vở của bạn khỏi bàn làm việc của tôi.
– She’s getting married soon=Cô ta sắp lấy chồng
– Go get dressed=Mặc quần áo vào.
– He got caught by the police driving at 80 miles per hour=Anh ta bị cảnh sát bắt khi lái xe 80 dặm một giờ.
– We’d better get moving before it gets dark=Chúng ta nên về trước khi trời tối.

C. Take (hành động có tính cách tích cực hơn get): nghĩa khác với get
– Take an enemy fortress=Chiếm pháo đài địch (capture)
– Your actions took me by surprise=Hành động của bạn làm tôi ngỡ ngàng.
– The doctor told his patient to take a deep breath=Bác sĩ bảo bịnh nhân hít mạnh và sâu (inhale).
– We took extra time to do the job properly=Chúng tôi bỏ thêm thì giờ để lo làm công việc cho hoàn hảo. (used more time)
– Instead of driving, you can take the train from Washington to New York. (use the train, go by train)=Thay vì lái xe hơi, anh có thể dùng xe lửa từ Washington đến New York.
– I’ll take your word for it (accept or believe)=Tôi tin lời anh nói.
– She took a dislike to his intrusions (experienced a dislike)=Cô ta cảm thấy không ưa anh ta vì anh tọc mạch vào đời tư của cô.
– You’ve really been taken (cheated)=Bạn bị lừa rồi.
– Don’t forget to take your umbrella (bring along)=Ðừng quên mang theo ô (dù).
– The nurse took the patient’s temperature (đo nhiệt độ).
– I’ve had about all I can take from them=Tôi chịu đựng họ hết nổi rồi (put up with, tolerate).
Some idioms with take:
– It takes two to tango (xem Huyền Trang, Từ và Thành Ngữ bài #100)
– Take five=hãy nghỉ 5 phút.
– Take it or leave it=bằng lòng nhận hay không tùy bạn.
– Take for granted=coi như đúng, coi như dĩ nhiên.
– Take stock=kiểm kê, đánh giá tình huống.
– Take the bench=quan toà nhậm chức.
– Take someone to the cleaners=(1) lừa ai vét sạch tiền, (2) thắng đối thủ.
– Take a leaf out of someone’s book=bắt chước ai.
– Take the words out of one’s mouth=nói trước ý người khác định nói.
– Take something with a pinch of salt=nghe một câu chuyện nhưng dè dặt bán tín bán nghi.

Phân biệt giữa like, alike, the same as, such as

Cùng biểu đạt một nghĩa trong nhiều trường hợp nhưng những từ này like, alike, the same as, such as luôn làm cho chúng ta lẫn lộn và rất bối rối khi sử dụng, vì vậy, bài này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về ý nghĩa của chúng nhé
*Like (trường hợp này nó là 1 giới từ): luôn phải theo sau là 1 noun(a princess,a palace)hoặc 1 pronoun (me,this) hoặc -ing(walking). Bạn cũng có thể dùng mẫu câu: like sth/sb -ing.(nghĩa là “giống như”).

Eg:
His eyes is like his father.
What ‘s that noise?It sounds like a baby crying.
*Like cũng được sử dụng khi đưa ra ví dụ như “such as”,”like/such as +N “.

Eg:
Junk food such as/like fizzy drinks and hamburgers have invaded the whole word.
*As+N:để nói cái gì là thật hoặc đã là như vậy (nhất là khi nói về nghề nghiệp của ai đó hoặc ta dùng cái đó như thế nào)

Eg:
A few years ago I worked as a bus driver. (…tôi làm nghề lái xe khách) (Tôi thực sự đã là người lái xe khách).
During the war this hotel was used as a hospital.(…được dùng làm bệnh viện)
The news of her dead came as a great shock.(…như 1 cú sốc)(Nó thực sự là 1 cú sốc).
As your lawyer, I wouldn’t advise it.(as (giới từ)=với tư cách là.)

*Similar /different :-k0 “to” nếu đứng 1 mình hoặc “+ to+N/Pr”(similar).

Eg:
My book and yours are different.
My book is different from yours .

*The same as /The same …as: The same +noun+as…

Eg:
Ann’s salary is the same as mine=Ann gets the same salary as me .(Lương của Ann bằng lương của tôi).
He is the same age as my wife.

* Alike : adj., adv.
– Nếu là một adj. (adjective) [not before noun] tương đương với: “very similar” (rất là giống nhau), hay là “as same as” (Ko có “same like” đâu nhé!)
Eg, a) My sister and I do not look alike. (chị tui và tui trông ko giống nhau)

Airports are all alike to me (đối với tui, các phi trường đều giống nhau)
- Nếu là một adv. (adverb)
trường hợp 1): tương đương với: “in a very similar way” (phương cách giống nhau)

Eg: They tried to treat all their children alike. (Họ đối xử với các trẻ con giống nhau – hàm nghĩa là ko phân biệt đối xử)
trường hợp 2): used after you have referred to two people or groups,
tương đương với: ‘both’ (cả hai) hay là: ‘equally’ (bằng nhau)

ví dụ: Good management benefits employers and employees alike. (Sự quản lý tốt gây lợi ích cho cả chủ nhân lẫn nhân viên)
Lưu ý: Không dùng Alike đứng trước một danh từ . Ta không nói They wore alike hats. Trong trường hợp này ta dùng similar thay thế: They wore similar hats.

PHÂN BIỆT LIKE VÀ ALIKE
Hãy so sánh những câu sau:
1. The twins are alike in looks but not in personality
-> Hai đứa trẻ sinh đôi trông giống nhau nhưng tính cách thì khác
2. These three photographs are almost alike.
-> Ba bức ảnh này hao hao giống nhau.
3. She’slike her sister.
-> Cô ấy hao hao giống chị mình
Ta không dùng like trong câu 1,2, và không dùng alike trong câu 3.

Phân biệt Miss và Remember

Miss và Remember đều có nghĩa là nhớ, nhưng đây lại là 2 từ hay gây nhầm lẫn cho người học (và cả Think Of và Think About nữa). Sau đây sẽ là vài điểm khác nhau giữa chúng:

+) Remember thì nó lại phân ra làm 2 cái:
Remember To V: Nhớ để làm gì (Tức là việc đó chưa đc làm)= Recall, Consider
Eg: Remember to do your homework (Don’t forget to do your homework) – Nhớ làm bài về nhà nhá.

You must consider doing your housework before I go home, OK? – Mày phải nhớ làm việc nhà trước khi tao về nghe chưa?

Remember V-ing: Nhớ là đã làm gì (Các mem đừng nhầm đây là Hiện tại tiếp diễn nha)
Eg : Yesterday? Oh I remembered she was going to the club with some friends – Ngày hôm qua ư? Tôi nhớ là cô ta đi tới câu lạc bộ cùng vài thằng bạn (Vì đây là kể lại nên là remembered)

+) Miss cũng phân ra làm 2 cái (2 từ này tinh quái chưa)
Miss Sb: Nhớ nhung ai đó (Tâm trạng)
Eg: Since we say goodbye, I have been missing you so much honey – Từ khi chúng ta chia tay anh nhớ em rất nhiều (Vì anh vẫn còn nhớ từ khi chia tay nên là hiện tại hoàn thành tiếp diễn).

I had an accident yesterday. Now I am in hospital. I miss everyone so much – Tôi bị tai nạn hôm qua. Giờ tôi ở bệnh viện. Nhớ mọi người quá mất thui

Miss St mang nghĩa là nhỡ cái gì đó (Chuyến tàu chẳng hạn)
Eg: Hurry up or else we’ll miss the last train – Nhanh lên nếu không chúng ta sẽ lỡ chuyến tàu muộn nhất đấy

I must have breakfast so fast unless I’ll miss the important meeting – Tôi phải ăn sáng rất nhanh nếu không thì sẽ muộn buổi họp mặt quan trọng này mất

Tóm lại: Remember thì đi với hành động, còn miss thì đi với người và vật

Phân biệt Person và People

Person và People – một số điểm đáng chú ý trong câu hỏi này. Trước hết là danh từ số ít và số nhiều. Chắc chúng ta đều biết là phần lớn các danh từ số ít trong tiếng Anh được tạo thành danh từ số nhiều bằng cách thêm chữ – s vào cuối danh từ, ví dụ: girl – girls, boy – boys.

Nhưng một số danh từ có dạng số nhiều bất quy tắc, chẳng hạn: child – children. Và person là một trong những danh từ như vậy. People trên thực tế là dạng số nhiều của danh từ person. Vì thế chúng ta nói về một người – one person, và hai người – two people.

Do vậy trong những câu nói hàng ngày, chúng ta nghe nói về nhiều người – many people, ‘There were a lot of people at the concert’.

Tuy nhiên nó phức tạp hơn một chút vì đôi khi chúng ta gặp từ persons. Ví dụ: nếu bạn ở trong thang máy bạn có thể thấy viết ‘Four persons only’. Và đôi khi nếu ta nghe tin tức, có thể nghe thấy từ persons được dùng. Chẳng hạn ‘4 persons were injured in the accident’, hay ‘Police are looking for 5 persons’. Từ persons thường được dùng trong ngữ cảnh trịnh trọng, là dạng số nhiều mang sắc thái trịnh trọng hơn.

Và nó lại còn trở nên phức tạp hơn khi chúng ta bắt gặp từ peoples. Ngoài nghĩa là người, people còn có thể được dùng để chỉ một dân tộc, nationality – tất cả người của một quốc gia – vì thế chúng ta có ví dụ: ‘the people of Cuba’.

Khi chúng ta nói về nhiều dân tộc khác nhau, chúng ta sẽ phải dùng từ peoples, ví dụ: ‘the peoples of South America’ – các dân tộc Nam Mỹ. Đây là một cách dùng hơi khác và ít thông dụng của từ peoples.

Và cuối cùng chúng ta có thể bắt gặp từ person đi cùng với một con số. Ví dụ: ‘a two-person car’ một chiếc xe hai chỗ ngồi. Trong trường hợp này từ person được dùng trong một cụm từ có chức năng như một tính từ, bổ nghĩa cho danh từ ‘car’ và trong trường hợp như thế này chúng ta không thêm chữ -s vào một tính từ. Tương tự chúng ta nói ‘a two-week holiday’ – một kỳ nghỉ hai tuần liền, chứ không nói ‘a two-weeks holiday’, hay ‘ a three-year course’, chứ không phải là ‘a three-years course’.


Tóm lại, thông thường chúng ta thấy people là danh từ số nhiều của person – one person, three people. Đôi khi từ people được dùng để chỉ một dân tộc vì thế chúng ta sẽ bắt gặp từ peoples để chỉ các dân tộc, quốc gia khác nhau, và đôi khi từ persons được dùng ở số nhiều trong văn viết chính thức, trịnh trọng, hay trong các biển chỉ dẫn.

Phân biệt WORK và JOB

Những yếu tố cần nhớ để Phân biệt WORK và JOB, mời các bạn xem bài viết này nhé
I. Về mặt ngữ pháp.
Work vừa là một động từ lại vừa là một danh từ, trong khi job chỉ là danh từ thôi.

II. Về mặt nghĩa.
Work (làm việc) là một hoạt động mà bạn dùng tới nỗ lực hay năng lượng, thường là để đạt được một mục đích hay nhiệm vụ gì đó chứ không phải là để vui chơi, giải trí. Từ này ngược hẳn nghĩa với từ play, và towork có nghĩa là thực hiện hành động đó.

Nhìn chung, chúng ta làm việc để kiếm tiền và chúng ta thường dùng từ này như một động từ; để miêu tả những gì việc chúng ta làm để kiếm tiền.

Ví dụ:
I work for the BBC. (Tôi làm cho đài BBC.)
David works in a café. (David làm ở một quán café.)

Trong các ví dụ này, chúng ta không biết chính xác nhiệm vụ hay trách nhiệm của người đó là gì. David làm việc ở quán café nhưng chúng ta không biết anh ấy làm việc dọn dẹp, phục vụ bàn, hay nấu đồ ăn.

Vì thế work có một nghĩa chung chung, trong khi job lại rất cụ thể, và nghĩa thông dụng nhất của từ này là tên của chính công việc mà bạn làm để kiếm tiền.

Ví dụ:
David has now got a new job. He is a cook in a small restaurant.
(David vừa kiếm được việc mới. Anh làm đầu bếp tại một tiệm ăn nhỏ.)
Trong ví dụ này, chúng ta biết chính xác công việc mà David làm là gì vì chúng ta biết  job – nghề của anh ấy là gì.

Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng từ job chỉ một nghề, một công việc cụ thể hay một vị trí nghề nghiệp nào đó, như cook – đầu bếp, teacher – giáo viên, hay banker – nhân viên ngân hàng, trong khi work nói tới một hành động làm việc chung chung.
Điều thú vị là mọi nghề nghiệp, công việc – jobs – đều phải liên quan tới việc làm – work – nhưng làm việc lại không phải lúc nào cũng là một phần của nghề nghiệp.

Ví dụ, một người có thể working in their garden – làm việc trong vườn, có thể cắt cỏ, trồng hoa. Tuy nhiên đó là hoạt động vào thời gian rảnh rỗi của người đó, chứ không phải là một phần công việc mà họ vẫn làm để kiếm tiền của người đó.

Khi là động từ, work còn có các nghĩa khác, chẳng hạn, nếu bạn tả một chiếc máy làm việc như thế nào, tức là bạn giải thích nó hoạt động ra sao.

Ví dụ:
Can someone show me how the photocopier works? I don’t know how to use it.
(Ai có thể chỉ cho tôi máy photocopy làm việc như thế nào không? Tôi không biết dùng nó như thế nào cả.)

Tương tự, bạn có thể dùng từ work để nói nếu chiếc máy làm việc/hoạt động tốt.
Ví dụ:
Don’t try to use that computer. It doesn’t work. We are waiting for the engineer to fix it.
(Đừng có dùng máy tính đó. Nó không làm việc. Chúng tôi đang đợi thợ đến sửa nó.)

Cuối cùng, mặc dù job là tên gọi công việc mà bạn làm để kiếm tiền, job cũng chỉ một việc cụ thể mà bạn phải làm; một việc đòi hỏi làm việc và một việc bạn có thể xác định cụ thể.

Ví dụ:
I have a few jobs to do at home this weekend. I need to paint my bedroom, fix a broken door and cut the grass.

(Tôi có một vài công việc phải làm ở nhà vào cuối tuần. Tôi cần phải quét vôi phòng ngủ, chữa cái cửa ra vào bị hỏng và cắt cỏ.)

Phân biệt Hear và Listen

Cùng phân biệt hear và listen qua những ví dụ đơn giản.

1. Về ý nghĩa
A. “Hear”
“Hear” có nghĩa là “nghe thoáng qua”, tức là nghe mà chưa có sự chuẩn bị và chủ tâm trước khi nghe.
Ví dụ:
I can’t hear very well (Tôi nghe không rõ lắm)
He could hear a dog barking (Anh ta có thể nghe được tiếng chó sủa)
B. “Listen”
“Listen” có nghĩa là “nghe”, nhưng mà là nghe có chủ tâm, có sự chuẩn bị trước khi nghe.
Ví dụ:
I listened carefully to her story (Tôi đã chăm chú nghe cô ta kể chuyện)
Listen! What’s that noise? Can you hear it? (Lắng nghe! Tiếng động gì ấy nhỉ? Bạn có nghe thấy không?)
Sorry! I wasn’t really listening. (Xin lỗi, tôi không chú ý lắm)

2. Về cách dùng
A. “Hear”
a. Hear không được dùng trong các thời tiếp diễn
Ví dụ: She heard footsteps behind her (Cô ta nghe thấy tiếng bước chân ngay đằng sau)
b. Hear đi với động từ nguyên thể có “to”
Ví dụ: She has been heard to make threats to her former lover (Người ta nghe đồn rằng cô ta đe dọa người yêu cũ)
c. Hear không đi với giới từ
B. “Listen”
a. Listen được dùng trong các thời tiếp diễn
Ví dụ: Sorry! I wasn’t really listening (Xin lỗi, tôi không chú ý lắm)
b. Listen được dùng để lưu ý mọi người về một điều gì đó
Ví dụ: Listen, there is something I will have to tell you (Lắng nghe này, tôi sẽ phải nói với anh một điều)
c. Listen thường đi với giới từ
Ví dụ: Why don’t you listen to reason? (Sao anh không chịu nghe theo lẽ phải)

Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2015

Tôi yêu Thái Bình quê tôi

"Người ta có thể có nhiều nơi để đi nhưng chỉ có một nơi để trở về!"
Trong tận sâu thẳm mỗi con người, quê hương vẫn là nơi chôn rau cắt rốn. Người ta cũng không được phép chối bỏ, lãng quên quê hương dù có nghèo khổ. Quên sao được khi tôi được sinh ra từ gốc lúa bờ tre hồn hậu, quên sao được khi đó là dải đất nặng ân tình, màu mỡ phù sa và hiển hách những chiến công, những con người làm nên lịch sử.

Thái Bình quê tôi đó, bao đời cây lúa nuôi lớn những tâm hồn, những trái tim hồn hậu, thủy chung. Bao lần trở về, cảm xúc trong tôi luôn dâng tràn khi đi qua những cánh đồng bạt ngàn lúa đang thì con gái dậy mùi thơm, hay bến nước, gốc đa, sân đình.Mọi người thường bảo tôi sao giản dị lạ thường. Tôi trả lời anh vì tôi sinh ra ở Thái Bình quê lúa mộc mạc và tôi lớn lên bằng hạt lúa mẹ trồng - lúa Thái Bình.

Lúc bé tôi chẳng biết đích xác cây lúa có tự bao giờ ở quê tôi. Nghe mẹ kể và kí ức còn sót lại của một con bé bốn tuổi thì căn nhà đắp đất nhỏ bé của bố mẹ tôi nằm bên đồng lúa bạt ngàn. Cuộc sống người dân gắn liền với cây lúa, đến cái nhà đắp đất cũng trộn từ rơm rạ lúa. Mẹ mang thai tôi vẫn đi nhổ mạ, đi cấy cho đến khi gặt lúa gánh về nhà mẹ chuyển dạ, gánh lúa oằn theo cơn đau của mẹ.

Lớn lên một chút, thiên đường của bọn trẻ nhỏ quê tôi là bồ thóc lúc chơi ú tim hay những vệt cỏ xanh ngan ngắt ven đồng lúa. Tôi hạnh phúc hơn nhiều đứa trẻ, không phải đi chăn trâu cắt cỏ. mỗi chiều học xong tôi theo chân người chị họ ra đồng bắt cào cào, muồm muỗm. Hai chị em với hai cái vỉ trên tay, tay kia cầm chai thủy tinh để đựng. Cào cào là món ăn cung cấp chất đạm cho đa phần những gia đình nghèo quê tôi. Chạy đuổi chán và khi cũng đã được kha khá, mệt mỏi, hai chị em nằm ệch ra bờ lúa thở hổn hển. Những tháng ngày tuổi thơ như thế đã giúp tôi phân biệt được mùi vị đặc trưng mỗi thời kì cây lúa: lúa đương thì con gái hương tinh khiết, thoang thoảng gió đưa, lúa chín vàng lại nồng nàn, ngào ngạt.

Lớn thêm chút nữa, bố kể chuyện cô tích Lang Liêu làm bánh chưng bánh giày dâng vua, tôi biết thêm rằng cây lúa có tự ngày xửa ngày xưa nhưng xưa như thế nào tôi không rõ. Tôi chỉ biết hạt lúa đơn sơ, bình dị đã làm nên điều kì diệu cho hoàng tử Lang Liêu.

Qua năm tháng, nước con sông Hồng vẫn đỏ nặng phù sa bồi đắp đôi bờ. Và tôi lớn lên, được học lịch sử tối biết nhều hơn về vùng đất lúa Thái Bình, lòng dấy lên niềm tự hào quê lúa, và càng hãnh diện vì được là một người con gái của quê lúa thân yêu.

Thái Bình tự ngàn xưa cho đến bây giờ vẫn là vùng đất lúa, đặc những lúa, mênh mông những lúa. Nên dân quê tôi nghèo dù đất nặng phù sa. Có những con người chưa bao giờ rời khỏi thửa ruộng con con mà bước ra ngoài lũy tre làng. Cái nghèo cứ đeo bám theo các nếp nhăn hằn trên khuôn mặt mỗi người. Dẫu thế muôn người vẫn thủy chung cùng lúa.

Người ta cũng thường bảo chỉ có người phụ đất chứ đất không bao giờ phụ người. Đất lúa Thái Bình là vùng đất đã trải qua bao thăng trầm, biến cố lịch sử, bao đời cây lúa nuôi dưỡng, sản sinh ra những nhân tài hào kiệt.

Đó là một Trần Thủ Độ có công sáng lập triều Trần. Đó là một Lê Quý Đôn nhà bác học Việt Nam. Đó là một Phạm Tuân anh hùng người Việt Nam đầu tiên bay vào vũ trụ và có công đầu trong bắn rơi B52 - pháo đài bay của Mỹ. Hay là một Bùi Quang Thận - người đầu tiên cắm lá cờ trên nóc Dinh Độc lập ngày toàn thắng… Và còn, nhiều nhiều nữa những cái tên như thế, họ đã được sinh ra từ quê lúa và được nuôi dưỡng bằng hạt lúa.

Người ta sống bên lúa chết vùi chân lúa nên yêu lúa như yêu máu thịt. Chỉ có những ai từng dầm mình cấy lúa trong cái rét cắt da giêng hai dưới mưa phùn mới biết yêu quý hơn thành phẩm của lúa là hạt gạo. Bưng bát cơm nóng hổi mà nghe vị mặn của mồ hôi dù mùi cơm thơm nồng. Bởi biết người yêu lúa nên lúa chẳng phụ lòng, cứ mơn mởn, cứ xanh tốt, cứ vàng ươm chuỗi hạt cho mùa bội thu. Mặc cho bom rơi đạn nổ từ hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mĩ, lúa gục xuống lại vươn thẳng lên hơn trước. Đất anh hùng sinh những người con anh hùng, sức sống mãnh liệt nên cây lúa trên mảnh đất ấy, từ những bàn tay con người ấy cũng có sức sống mãnh liệt kia. Và rồi một quê hương năm tấn ra đời dưới sức mạnh tàn phá của bom đạn kẻ thù. Chúng không nhận ra một điều là bom đạn có thể hủy diệt vật chất nhưng không hủy diệt được tình yêu.

Theo tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam ruột thịt, lúa lại theo người vượt Trường Sơn đi cứu nước. Những gùi lúa, bao lúa khi đến được tay người chiến sĩ đã thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả những giọt máu đào của người tải lúa, gạo. Tất cả cho hòa bình, tất cả vì miền Nam yêu thương mà “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Có bưng bát cơm nóng hổi từ hạt lúa vượt Trường Sơn ác liệt ngày ấy mới thấy trân quý tình người, tình lúa quê tôi.

Những cánh đồng lúa năm tấn một hecta thời kì chống Mỹ đó là một kì tích. Ngày nay, năng suất lúa ngày càng tăng nhờ kỹ thuật, cơ giới hóa nông nghiệp, sản lượng lúa trên một hecta vượt xa cái ngưỡng năm tấn. Nhưng dưới chiến tranh tàn phá mà làm được như vậy thật đáng quý trọng biết bao. Nhìn vào quá khứ tôi chỉ muốn thốt lên “Ôi quê lúa anh hùng!”.

Về quê trong dịp cuối năm, tôi vẫn thấy dì tôi cùng mọi người lóp ngóp trong cái lạnh cắt da, mưa phùn gió bấc để cấy. Lúc lên bờ đôi tay ai cũng cứng đờ, tê dại, đầu xoay xoay như chong chóng. Phải chăng vì thế mà lúa cứ xanh, cứ tốt, cứ trĩu hạt vàng bông, cho no con mắt ưng cái bụng người trồng lúa. Gặp mùa cắt lúa ngả rạ, cái khung cảnh rộn rịp, tưng bừng cộng với mùi hương nồng nàn lúa mới khiến bất kì ai cũng phải dừng lại ngắm nhìn và thưởng thức khi đi qua. Tiếng gọi nhau í ới, tiếng cười đùa rôm rả, những cánh cò chấp chới đằng xa, ngay chân gặt rào rào những cào cào, châu chấu béo vàng nũng nĩnh. Một miền quê thanh bình, yên ả đến không thể tưởng.

Con đường về quê mang máng trong ký ức khi tôi mới bốn tuổi, một cảm giác khó tả trào dâng. Hai bên đường những thửa ruộng lúa non mơn mởn trải dài. Đồng quê yêu thương, lòng những người con quê lúa như được vỗ về sau những tháng ngày xa quê.

Từ thành phố Thái Bình theo quốc lộ 10 tới quốc lộ 39 là gặp làng Nguyễn - xứ sở cửa thứ bánh tiến vua quê tôi - bánh cáy. Gọi là bánh tiến vua bởi khi xưa, quan đại thần triều đình đi kinh lý vùng châu thổ về qua đây, người dân đã lấy bánh dâng lên vua. Cứ thế, thành thông lệ, gần tết là người dân dâng bánh cho vua thưởng thức.

Nguyên liệu chính làm nên bánh cáy là gạo nếp. Ngoài ra còn có gấc, quả dành dành, lạc, vừng, cà rốt, gừng, vỏ quýt, mỡ lợn. Gạo nếp được chia ra làm hai phần, một phần đồ xôi với quả dành dành tạo nên màu vàng tươi, một phần đồ xôi với quả gấc cho màu đỏ. Hai loại xôi sau đó được giã bằng chày. Sau khi giã nhuyễn, cán mỏng, cắt thành lát như mứt bí rồi sấy khô. Sấy xong cho vào chảo mở lợn đang sôi đảo đều tới khi lát bánh thơm giòn.

Các nguyên liệu phụ như lạc, vừng được rang chín giòn, xát bỏ vỏ, gạo nếp hoa vàng được rang nổ bỏng nở tung, sạch trấu, dậy mùi. Mỡ lợn muối đường hơn nửa tháng đem ra thái nhỏ như hạt lựu, xào ngọt lấy độ trong. Cà rốt xào nước đường, nước gừng, vỏ quýt tươi được chuẩn bị đầy đủ. Cho các nguyên liệu đã chuẩn bị trộn đều với đường muối, hâm nóng trên chảo đến khi đạt tới mùi thơm kỹ thuật thì đưa vào khuôn gỗ có lót vừng bên trong, nhồi nén cho bánh trở nên cứng, sau đó lấy ra đóng gói.(tham khảo ý và trích dẫn tại…)

Bánh cáy không phơi nắng không sấy qua lửa nhưng để được lâu và làm bật lên những mùi vị đặc trưng của nguyên liệu nhờ vào bàn tay tài hoa của nghệ nhân làng Nguyễn.

Lần nào về tôi cũng thủ sẵn 5 đến 10 phong bánh vào Nam làm quà sau khi đã ăn thỏa thích. Ai qua Thái Bình mà chưa thưởng thức bánh cáy và đem về thì xem như chưa tới Thái Bình.

Những hôm tiết trời se lạnh, có bánh cáy cắt miếng nhâm nhi bên ấm trà xanh nóng hổi thật không có gì tuyệt vời bằng.

Những món ngon quê tôi bình dị, dân dã mà sâu sắc vì nó làm từ hạt lúa hay nhờ lúa mà ngon hơn. Nó sâu sắc vì tình người và cả tình lúa bao đời trên miền đất mộc mạc thủy chung này.

Tôi đã đi học trong miềm đất Nha trang đẹp và đầy nắng gió nhưng tôi không thể quên mảnh đất Thái Bình- chỉ cái tên thôi đủ làm tôi ấp áp và đượm mùi lúa thơm nồng - mảnh đất tôi đã sinh ra và lớn lên ở đó, và sau 4 năm tôi lại trở về lòng đầy tự hào rằng mình được sinh ra từ vùng quê nghèo ấy. Nơi đó đã nuôi dưỡng tâm hồn, cho tôi niềm tin, nghị lực để bước vào đời.

Ai cũng có một nơi để trở về và một điều gì đó để tự hào. Tôi cũng vậy, tôi tự hào vì mình sinh ra từ quê lúa bình dị, khi mỏi gối chồn chân tôi luôn tìm về để được thả mình trong không gian yên ả. Nếu có dịp đến quê tôi - Thái Bình, bạn sẽ hiểu vì sao tôi yêu quý./.

(ST. Internet)

Luật Tài nguyên nước 2012 và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành

Số/Ký hiệuNgày ban hànhTrích yếuDownload
Luật số 17/2012/QH1221/6/2012Luật Tài nguyên nướcDownload
142/2013/NĐ-CP24/10/2013Nghị định Quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực Tài nguyên nước và khoáng sảnDownload
201/2013/NĐ-CP27/11/2013Nghị định Quy định chi tiết một số điều của Luật Tài nguyên nướcDownload
43/2015/NĐ-CP06/5/2015Nghị định Quy định lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nướcDownload
54/2015/NĐ-CP08/6/2015Nghị định Quy định ưu đãi đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm hiệu, quảDownload
19/2013/TT-BTNMT18/7/2013Thông tư quy định kỹ thuật quan trắc tài nguyên nước dưới đấtDownload
27/2014/TT-BTNMT30/5/2014Thông tư Quy định việc đăng ký khai thác nước dưới đất, mẫu hồ sơ cấp, gia hạn, điều chỉnh, cấp lại giấy phép tài nguyên nướcDownload
40/2014/TT-BTNMT11/7/2014Thông tư Quy định hành nghề khoan nước dưới đấtDownload
56/2014/TT-BTNMT24/9/2014Thông tư Quy định điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân thực hiện điều tra cơ bản tài nguyên nước, tư vấn lập quy hoạch tài nguyên nước, lập đề án, báo cáo trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tài nguyên nướcDownload
42/2015/TT-BTNMT29/9/2015Thông tư Quy định kỹ thuật Quy hoạch tài nguyên nướcDownload
23/2015/QĐ-UBND29/9/2015Quy định Một số nội dung về quản lý tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Lai ChâuDownload
Số/Ký hiệuNgày ban hànhTrích yếuDownload
15/2009/TT-BTNMT05/10/2009Thông tư Quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật lập Quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch tài nguyên nướcDownload
26/2009/TT-BTNMT30/11/2009Thông tư Quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật điều tra, đánh giá tài nguyên nướcDownload
20/2009/TT-BTNMT05/11/2009Thông tư Quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật điều tra, đánh giá hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyên nướcDownload
21/2009/TT-BTNMT05/11/2009Thông tư Quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật điều tra, đánh giá hiện trạng xả nước thải và khả năng tiếp nhận nước thải của nguồn nướcDownload
10/2010/TT-BTNMT01/7/2010Thông tư Quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật khảo sát, đo đạc tài nguyên nướcDownload
Số/Ký hiệuThay thếTrích yếuDownload
QCVN 40:2011/BTNMTQCVN 24:2009QCKTQG về nước thải công nghiệpDownload
QCVN 39:2011/BTNMTTCVN 6773:2000QCKTQG về chất lượng nước dùng cho tưới tiêuDownload
QCVN 38:2011/BTNMTTCVN 6774:2000QCKTQG về chất lượng nước mặt bảo vệ đời sống thủy sinhDownload
QCVN 35:2010/BTNMT...QCKTQG về nước khai thác thải từ các công trình dầu khí trên biểnDownload
QCVN 29:2010/BTNMT...Nước thải của kho và cửa hàng xăng dầuDownload
QCVN 28:2010/BTNMT...Nước thải Y tếDownload
QCVN 25:2009/BTNMT...Nước thải bãi chôn lấpDownload
QCVN 24:2009/BTNMT...Nước thải công nghiệpDownload
QCVN 14:2008/BTNMT...Nước thải sinh hoạtDownload
QCVN 13:2008/BTNMT...Nước thải công nghiệp dệt mayDownload
QCVN 12:2008/BTNMT...Nước thải công nghiệp giấy và bột giấyDownload
QCVN 11:2008/BTNMT...Nước thải công nghiệp chế biến thủy sảnDownload
QCVN 10:2008/BTNMT...Chất lượng nước biển ven bờDownload
QCVN 09:2008/BTNMT...Chất lượng nước ngầmDownload
QCVN 08:2008/BTNMT...Chất lượng nước mặtDownload
QCVN 01:2008/BTNMT...Nước thải chế biến cao su thiên nhiênDownload
QCVN 02:2009/BYT...Chất lượng nước sinh hoạtDownload
QCVN 01:2009/BYT...Chất lượng nước ăn uốngDownload

Bài đăng phổ biến