Hiển thị các bài đăng có nhãn KhoaHoc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn KhoaHoc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2016

Phân cấp bão theo Việt Nam

Bão là trạng thái nhiễu động của khí quyển và là một loại hình thời tiết cực trị.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “bão” thường được hiểu là bão nhiệt đới, là hiện tượng thời tiết đặc biệt nguy hiểm chỉ xuất hiện trên các vùng biển nhiệt đới, thường có gió mạnh và mưa lớn. Tuy thế, thuật ngữ này rộng hơn bao gồm cả các cơn dông và các hiện tượng khác hiếm gặp ở Việt Nam như bão tuyết, bão cát, bão bụi.

1.Tên cơn bão do ai đặt?
Mỗi khi một cơn bão xuất hiện, các tổ chức khí tượng sẽ đặt cho chúng một tên. Đối với ổ bão tây bắc Thái Bình Dương (nơi có bão đổ bộ vào Việt Nam), tên bão được Trung tâm Khí tượng hải quân Mỹ (đặt tại đảo Guam) chuẩn bị. Từ năm 2000, mỗi quốc gia trong số 14 quốc gia thành viên của Tổ chức Khí tượng thế giới (trong đó có Việt Nam) thuộc khu vực tây bắc Thái Bình Dương góp 10 tên để đặt cho các cơn bão xuất hiện trong khu vực. Tuy nhiên, khi những cơn bão bắt đầu vào vùng biển Việt Nam, chúng không được gọi theo tên quốc tế nữa mà được gọi theo tên riêng của Việt Nam bằng cách đánh số thứ tự của cơn bão xuất hiện trong năm. Cách đặt tên bão theo số thứ tự mang tính phổ thông hơn, giúp người dân dễ nhớ hơn so với việc gọi theo tên quốc tế.

2.Vì sao Việt Nam ít có bão trên cấp 12?
Sở dĩ Việt nam ít có bão mạnh trên cấp 12 là bởi những cơn bão xuất hiện từ tây bắc Thái Bình Dương vào Việt Nam có đời sống ít nhất là 7 ngày, nhiều nhất là kéo dài nửa tháng nên khi vào biển Đông bão đã rơi vào giai đoạn suy yếu. Ngoài ra còn nguyên nhân khác khiến bão vào Việt Nam không còn mạnh bởi quần đảo Philippines được xem như tấm chắn tự nhiên ngăn Việt Nam với ổ bão lớn nhất thế giới là tây bắc Thái Bình Dương. Hơn nữa, do nhiệt độ của biển Đông không lớn nên không đủ năng lượng cung cấp cho bão trên đường di chuyển. Hiện các máy đo gió ở Việt Nam chỉ có thể đo đến sức gió ở cấp 12, nếu gió trên mức này thì máy không thể đo được. Chỉ có rất ít các máy đo hiện đại mới đo được trên cấp gió này. Vì thế các cơn bão có sức gió trên cấp này thì được gọi chung là gió trên cấp 12. Riêng cơn bão số 9 (Xangsane) vào năm 2006, do gió quá mạnh nên lần đầu tiên ở Việt Nam đã dự báo mức gió cấp 13 và trên cấp 13.

3. Dựa vào căn cứ nào người ta phân cấp bão ?
Thang Beaufort do sĩ quan hải quân người Anh là Sir Francis Beaufort thiết kế từ năm 1805. Thang này gồm 17 cấp gió khác nhau tương ứng với 17 cấp độ của bão. Hiện Việt Nam đang sử dụng thang này, nhưng do các cơn bão tác động đến Việt Nam chỉ có sức gió mạnh nhất đạt đến cấp 12 nên nhiều người lầm tưởng cấp 12 là cấp độ mạnh nhất của bão.

4. Vậy phân cấp bão theo thang  Sir Francis Beaufort là như thế nào ?

Hy vọng bài viết của mình sẽ giúp bạn có một hiểu biết chung về bão tại Việt Nam.

Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016

Cách "phù phép" nước biển thành nước ngọt nhanh nhất

Siêu rẻ, siêu tiết kiệm, siêu dễ dàng là những gì có thể miêu tả về phương pháp lọc nước có 1-0-2 này.
Chúng ta biết rằng, nước chiếm tới 3/4 bề mặt Trái đất nhưng 97,5% trong số này là nước mặn, còn lại 2,5% là nước ngọt.

Với tình trạng khan hiếm nguồn nước vì hạn hán tại nhiều nơi như hiện tại, con người đang tìm mọi cách để có thể biến lượng nước biển khổng lồ thành nước ngọt sinh hoạt. Nhiều thiết bị khử muối từ nước biển đã ra đời, nhưng đa số đều có giá thành khá đắt đỏ.

Hãy tạm quên những phương pháp ấy đi, bởi video sau sẽ hướng dẫn bạn cách chế tạo một thiết bị khử muối từ nước biển đơn giản, hiệu quả và đặc biệt nguyện liệu chế tạo chỉ là các vật dụng sẵn có trong nhà mà thôi.
Bạn chỉ cần cho nước biển vào 1 chiếc bình kín, đục 1 lỗ nhỏ để nhét vừa ống hút và dẫn ống hút này từ bình lớn thông sang bình nhỏ thì nước thu được ở bình nhỏ sẽ là nước ngọt.
Vì sao lại thế?

Thiết bị đơn giản này ứng dụng nguyên lý bốc hơi và ngưng tụ của nước. Theo đó, nước trong tô hấp thu nhiệt của Mặt trời hóa hơi bay lên, trong khi các chất bẩn hay muối trong nước bị giữ lại trong tô.

Đặc biệt, ánh nắng Mặt trời cũng được chứng minh là có tác dụng diệt khuẩn, nhờ đó mà nước trong tô sẽ trở nên sạch và an toàn hơn nhiều.

Tiếp theo, hơi nước gặp nhiệt độ mát hơn tại bề mặt màng nhựa, sẽ ngưng tụ lại thành nước. Nhờ sức nặng của viên đá, các giọt nước này sau đó sẽ chảy vào cốc. Vậy là ta đã thu được nước tinh khiết, không muối, không bụi bẩn và hoàn toàn không có mùi khó chịu.

Tuy nhiên, để thu được nước ngọt hoàn toàn, các bạn nên lọc qua 2 lần. Nguyên tắc là không để nước bay lên ngưng tụ ngay tại không gian bay hơi là được. Phương pháp đơn giản nhất là như thế này:

Nguồn: Youtube
Theo Minh Khánh / Trí Thức Trẻ

Thứ Hai, 1 tháng 2, 2016

Nhật xây nhà máy quang điện nổi lớn nhất thế giới

vnexpress.net- Tập đoàn Kyocera ở Nhật Bản bắt đầu xây dựng nhà máy điện Mặt Trời nổi lớn nhất thế giới với công suất đủ đáp ứng nhu cầu cho 5.000 hộ dân.

Toàn cảnh nhà máy điện Mặt trời nổi Yamakura đang xây tại Nhật Bản. Ảnh: Kyocera.
IFL Science hôm 28/1 đưa tin, tập đoàn Kyocera đã bước vào gian đoạn xây dựng đầu tiên. Nhà máy điện Mặt Trời nổi mang tên Yamakura nằm trên mặt hồ chứa đập Yakamura ở Ichihara, tỉnh Chiba, Nhật Bản. Các tấm pin năng lượng Mặt Trời bao phủ diện tích 180.000 m2, dự kiến cung cấp đủ điện cho 5.000 hộ gia đình tại địa phương.

Sau khi hoàn thành năm 2018, nhà máy điện Mặt Trời nổi Yamakura sẽ có tổng công suất khoảng 13,7 MW, gồm 51.000 module phát điện. Dù Yamakura được coi là nhà máy quang năng nổi có quy mô và công suất lớn nhất thế giới, nó vẫn kém xa so với nhà máy điện Mặt Trời lớn nhất hiện nay trên đất liền tại Rosamond, California, Mỹ, nơi có 13 km2 pin năng lượng Mặt Trời, với công suất 579 MW.

Sau thảm họa Fukushima năm 2011, tất cả nhà máy điện hạt nhân tại Nhật Bản tạm thời ngừng hoạt động, khiến nước này phải tăng cường hoạt động của các nhà máy nhiệt điện, gây ảnh hưởng lớn đến cam kết hạn chế phát thải CO2 và phòng chống biến đổi khí hậu. Kể từ đó, Nhật Bản quan tâm hơn và gia tăng sử dụng các nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo và năng lượng xanh.

Dự án tại hồ chứa nước Yamakura là nhà máy điện Mặt Trời nổi thứ tư của tập đoàn Kyocera, sau khi hai nhà máy khác đi vào hoạt động tháng 3 và tháng 6/2015.
Lê Hùng

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

Bất ngờ với những tỷ lệ vàng trong tự nhiên

Vũ trụ có tính hỗn loạn và không ổn định, nhưng nó cũng là thế giới vật chất có mức độ tổ chức cao, đồng thời bị ràng buộc bằng những quy luật toán học. Một trong những biểu hiện của những quy luật cơ bản này là thông qua tỷ lệ vàng.

Tỷ lệ vàng thường được biểu diễn bởi chữ cái ϕ (phi) trong tiếng Hy Lạp. Nó gắn liền trực tiếp với dãy số Fibonacci (dãy số bắt đầu với số 0 và số 1, số phía sau bằng tổng của 2 số liền trước nó: 0 + 1= 1, 1+1= 2, 1+2= 3, 2+3=5, 3+5=8, …) Nếu số trước chia cho số sau trong dãy Fibonacci (1:1 = 1; 2:1 = 2; 3:2 = 1,5; 5:3=1,666; 8/5 = 1,6; 13/8=1,625…) thì kết quả thu được sẽ tiến gần đến số vô tỉ 1,6180339887…. Con số này chính là tỷ lệ vàng.
Tỷ lệ vàng trong tự nhiên
Khi đường xoắn ốc Lôgarit tiếp xúc trong với các cạnh của một chuỗi các hình chữ nhật vàng liên tiếp thì nó được gọi là Đường xoắn ốc vàng.
Nhà toán học Vi Hart cho biết, những hình dạng tương tự Đường xoắn ốc vàng trong tự nhiên rất phong phú, nổi bật nhất là vỏ ốc, sóng biển, mạng nhện và thậm chí là đuôi tắc kè hoa.
Thiên hà Messier 83, cách Trái Đất 15 triệu năm ánh sáng, có hình dạng giống hệt với Đường xoắn ốc vàng. (Ảnh: ESA)
Đường xoắn ốc vàng được biểu hiện qua đuôi tắc kè hoa. (Ảnh: Ryan M. Bolton/Shutterstock)
Nhiều loại vỏ ốc, như vỏ ốc sên và ốc anh vũ, là những ví dụ hoàn hảo của Đường xoắn ốc vàng. (Ảnh: Shutterstock)

Chiếc lá non cuộn tròn của cây dương xỉ Fiddleheads Fern có hình dạng xoắn ốc đặc biệt. (Ảnh: Zamada /Shutterstock)
Phần đỉnh của con sóng biển có dạng xoắn ốc. (Ảnh: Shutterstock)

Hình dạng xoắn ốc vàng xuất hiện khi nhìn nụ hoa từ phía trên xuống. (Ảnh: Shutterstock)
Hình ảnh xoáy nước cũng thể hiện mối liên hệ với tỉ lệ vàng. (Ảnh: Shutterstock)
Giống hệt như vỏ ốc, bão nhiệt đới thường có dạng xoắn ốc vàng. (Ảnh: Mike Trenchard/NASA)
Hình dạng của một chiếc mạng nhện. (Ảnh: Shutterstock)
Quả thông có những đường xoắn ốc tuân theo tỉ lệ vàng. (Ảnh: Shutterstock)
 Nguồn: Vnexpress

Thứ Hai, 15 tháng 9, 2014

Mặt trăng ảnh hưởng như thế nào đến thế giới về đêm?

Nhiều thần thoại và truyền thuyết lan truyền qua nhiều thế hệ đã cố gắng lí giải những tác động ma quái của mặt trăng đối với thế giới động vật, nhưng cho đến nay có rất ít báo cáo khoa học chính thức nói tới vấn đề đó. Nay, trong một đánh giá toàn diện, các nhà khoa học đã tìm ra những phương thức tác động gián tiếp, thỉnh thoảng trực tiếp, của chu kì mặt trăng đối với hành vi của giới động vật.
Bản nhận xét cũng đề xuất rằng sự ô nhiễm ánh sáng, cái làm chặn mất một phần ánh sáng của mặt trăng, có thể phá vỡ những hình tượng thiên nhiên đi cùng với vệ tinh duy nhất của Trái đất chúng ta.

Những ai tin vào chứng cuồng mặt trăng – động vật hóa điên hóa cuồng bởi chu kì mặt trăng – sẽ cảm thấy thất vọng khi biết rằng có nhiều động vật điều chỉnh hành vi của chúng trước sự biến đổi mức độ chiếu sáng và thủy triều, chứ không phải cái gì thuộc về siêu nhiên. Tuy nhiên, những hành vi khác thật sự có tuân theo những đồng hồ ngày đêm bí ẩn hơn bị chi phối bởi chu kì mặt trăng, theo báo cáo đăng trên số ra ngày 2/7/2013 của tạp chí Proceedings of the Royal Society B.
Mặt trăng có nhiều ảnh hưởng đối với cuộc sống động vật vào đêm, nhưng chưa có nhiều nghiên cứu theo hướng này.
“Mặt trăng có thể tác động như một ám hiệu đồng bộ giữa các cá thể, là một ám hiệu cho những thông số môi trường khác – thủy triều, nguồn thức ăn – hay đơn giản là cho phép động vật sử dụng thị giác,” nhà sinh học Noga Kronfeld-Schor tại trường Đại học Tel Aviv, Israel, một đồng tác giả của bài báo trên, cho biết. “Những hành vi mà nó tác động là rộng khắp và đa dạng, từ những quá trình dài hạn như sinh sản theo nhịp mùa và di cư cho đến sự phản ứng trực tiếp với mức độ chiếu sáng.”

Chứng cuồng mặt trăng ở động vật
Để tìm hiểu những tác động rộng rãi của ánh trăng thiên nhiên đối với các sinh vật đêm, đội khoa học đã phân loại các tác động thành nhóm sinh sản, thông báo và tàn phá/săn mồi, và xử lí mỗi nhóm này trên những nhóm rộng động vật.

Một trong những hành vi ấn tượng nhất mà đội nghiên cứu trình bày trong báo cáo của họ là sự kiện đẻ hàng loạt do mặt trăng kích thích xảy ra vào tháng 12 hằng năm ở Rạn San hô Lớn ở Australia. Mỗi năm, hàng trăm loài san hô cùng nhau sinh sản đồng thời. Nhiều yếu tố môi trường đa dạng – bao gồm nhiệt độ, độ mặn và nguồn thức ăn – có khả năng góp phần cho nhịp xuất hiện của sự kiện, nhưng mức độ sáng của ánh trăng có vẻ là một nhân tố kích thích chủ yếu. Khi có ánh trăng thích hợp, hàng trăm loài san hô phóng thích tinh trùng và trứng đồng thời, làm tăng xác suất thụ tinh.

Trong những trường hợp khác, tác động của mặt trăng đơn giản hơn. Ví dụ, các kiểu trao đổi thông tin thay đổi theo mức ánh sáng tăng lên vào đêm đối với những loài chim nhất định. Cú đại bàng dùng lông cổ màu trắng để thông tin với chim khác vào ban đêm, và có xu hướng tăng hoạt động này vào những đêm có trăng tròn khi lông của chúng dễ nhìn thấy hơn. Mặt khác, những chim cú khác lại tránh hoạt động vào những đêm trăng tròn, một hành vi theo các nhà khoa học là để giúp chúng tránh né những kẻ săn mồi.

Giảm hoạt động để tránh động vật săn mồi trong những khoảng thời gian ánh trăng sáng là một cách thường gặp ở các loài động vật trên đất phản ứng với chu kì mặt trăng. Tuy nhiên, các loài động vật biển thường phản ứng nhiều hơn với các cơ hội đi cùng sự biến đổi thủy triều. Một số loài rùa biển, chẳng hạn, chờ đến con nước cao của đêm trăng tròn dâng sóng lên bãi biển mới bò lên bờ và đẻ trứng trên bãi cát.

Con bọ cứng - ấu trừng của loài côn trùng giống chuồn chuồn gọi là kiến sư tử - thật sự đào những cái lỗ lớn hơn để bắt con mồi côn trùng vào đêm trăng tròn. Hành vi thay đổi này có thể là kết quả của việc con mồi côn trùng của chúng trở nên hoạt động hơn dưới ánh trăng tròn, nên đào những cái lỗ lớn sẽ mang lại thu hoạch nhiều hơn.

Các tác động của mặt trăng vẫn bí ẩn
Tuy nhiên, nhiều chi tiết tác động của mặt trăng đối với hành vi động vật vẫn chưa được biết tới do ít có nghiên cứu về vấn đề này, nhất là so với cơ sở nghiên cứu rộng rãi hơn nhiều về các tác động của chu kì mặt trời đối với động vật.

“Là con người, chúng ta lệ thuộc vào thị giác và ít nhận thức về thế giới ban đêm,” phát biểu của Kronfeld-Schor. “Nhiều người trong số chúng ta kiên dè các sinh vật sống về đêm, và việc quan sát và nghiên cứu chúng cũng khó khăn hơn.”

Vai trò tác động của ánh sáng nhân tạo đối với những chu kì này vẫn ít được hiểu rõ, mặc dù những nghiên cứu sơ bộ cho thấy khi có sự ô nhiễm ánh sáng, một số loài động vật đêm giảm khả năng tàn phá và kiểu hoạt động tự nhiên của chúng phải thay đổi.

“Sự ô nhiễm ánh sáng có những tác động rộng khắp và đa dạng từ mức cá thể cho đến cộng đồng, và ảnh hưởng đến động vật không xương sống lẫn có xương sống,” Kronfeld nói. “Các tác động đó chỉ mới bắt đầu được làm rõ.”

Đội nghiên cứu hi vọng bản đánh giá của họ sẽ cung cấp một bước đệm cho nghiên cứu trong tương lai về sự sống vào đêm, cũng như các tác động của sự ô nhiễm ánh sáng đối với hành vi về đêm và nhịp sinh học ngày đêm.
Theo LiveScience 
Nguồn Thuvienvatly.com

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2014

Tiểu sử và sự nghiệp của Mendeleev

Dmitri Ivanovich Mendeleev(1834 - 1907): Menđêlêep là nhà hóa học và là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng nước Nga. Ông tốt nghiệp đại học năm 21 tuổi đã từng là giáo viên trung học, sau đó đến dạy học tại trường Đại học Pêtécbua chuyên ngành hóa học, ông đã lần lượt qua Pháp, Đức học tập nghiên cứu. Cống hiến lớn nhất của ông là nghiên cứu ra bảng tuần hoàn Menđêlêep, đây là một cống hiến xuyên thời đại đối với lĩnh vực phát triển hóa học của ông, người sau mệnh danh ông là "thần cửa của khoa học Nga" (door - god).


Cống hiến xuất sắc nhất của Menđêlêep là phát hiện ra quy luật biến hóa mang tính chu kỳ của các nguyên tố hóa học gọi tắt là quy luật tuần hoàn các nguyên tố.

Khi Menđêlêep viết "Nguyên lý hóa học", ông nghĩ đến lúc này trong số các nguyên tố đã phát hiện trên thế giới là 63 nguyên tố, giữa chúng nhất định có những quy luật biến hóa thống nhất, vì rằng tất cả các sự vật điều có liên quan với nhau. Để phát hiện quy luật này ông đã đăng ký 63 nguyên tố này vào 63 chiếc thẻ, trên thẻ ông viết tên, nguyên tử lượng, tính chất hóa học của nguyên tố. Ông dùng 63 chiếc thẻ mang tên 63 nguyên tố này xếp đi xếp lại trên bàn. Bỗng nhiên một hôm ông phát hiện ra rằng nếu xếp các nguyên tố này theo sự lớn nhỏ của nguyên tử lượng thì sẽ xuất hiện sự biến hóa mang tính liên tục rất kỳ lạ, nó giống như một bản nhạc kỳ diệu vậy. Menđêlêep không giấu nổi niềm vui, ông tin tưởng chắc chắn rằng loại quy luật này chứng tỏ quan hệ của vạn vật trên thế giới này là tất nhiên và có luật tuần hoàn của chúng.

Menđêlêep như đã có chìa khóa mở cánh cửa của mê cung đã phát hiện trên những bí mật của cả cung điện. Ông đã sắp xếp những nguyên tố thành một bảng tuần hoàn, trong đó có những nguyên tố vẫn phải để trống. Ông công bố tác phẩm của mình, kiên trì chờ đợi kết quả kiểm nghiệm của các nhà khoa học ở khắp nơi trên thế giới đối với quy luật tuần hoàn của các nguyên tố, nhưng suốt 4 năm không phát hiện thêm được nguyên tố mới nào.

Năm 1875 Viện Hàn lâm khoa học Pari nhận được thư của một nhà khoa học, trong thư nói ông đã tạo ra được một nguyên tố mới trong quặng kẽm trắng, ông gọi nguyên tố là "Gali". Tính chất của Gali giống như nhôm, nguyên tử lượng là 59,72; tỷ trọng là 4,7. Nghe được tin này Menđêlêep mắt sáng hẳn lên, theo phát hiện 4 năm trước đây của mình nguyên tố mới này cùng "nhóm của nhôm" đây là điều 4 năm trước ông đã dự đoán. Nhưng ông lại cảm thấy không yên tâm, theo cách tính của bảng tuần hoàn thì nguyên tử lượng của nhôm phải là khoảng 68, tỷ tọng phải là 5,9 - 6,0. Menđêlêep tin rằng mình đúng, ông lập tức viết thư cho Viện Hàn lâm khoa học Pari nói ý kiến của mình.

Bức thư được chuyển đến tay nhà khoa học đã công bố phát hiện ra Gali. Ông ấy hết sức ngạc nhiên, Menđêlêep chưa nhìn thấy mặt "Gali" mà dám nói biết được nguyên tử lượng và tỷ trọng của nó là bao nhiêu, cứ như là chuyện đùa? Nhưng vì thận trọng, nhà khoa học ấy đã tiến hành xác định lại một lần nữa những số liệu trên, kết quả vẫn không thay đổi.

Một thời gian sau, nhà khoa học người Pháp này lại nhận được thư của Menđêlêep, lời lẽ trong thư hết sức tự tin, hình như không phải là đang nói đến nguyên tố mới, mà là đang làm một bài toán: "4 + ( ) = 10". Nhưng là nhà khoa học ông không thể xem thường ý kiến của Menđêlêep. Ông lại tuyển Gali một lần nữa rồi xác định những chỉ số của nó, kết quả lần này làm ông ngạc nhiên bởi đúng như dự đoán của Menđêlêep: Tỷ trọng của Gali là 5,94; đây đúng là một sự trùng hợp đặc biệt không thể tưởng tượng được.

Sau khi lời dự đoán kỳ lạ này được chứng thực, cả giới hóa học kinh ngạc. Lý luận về quy luật tuần hoàn của các nguyên tố học đã bị lãng quên nhiều năm, nay được mọi người coi trọng, một số nhà khoa học đã chân thành chúc mừng sự phát hiện tài ba của Menđêlêep. Bảng tuần hoàn nhanh chóng được dịch thành nhiều thứ tiếng và truyền bá đi khắp nơi trên trái đất. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học (còn gọi là bảng tuần hoàn Menđêlêep) trên 100 năm qua đã là chìa khóa dẫn đến việc phát minh nhiều nguyên tố hóa học mới.

Bốn năm sau, Thụy Điển phát hiện một loại nguyên tố mới khác, có người gọi nó là "Scanđi". Khi mọi người nghiên cứu sâu hơn một bước thì phát hiện ra rằng "Scanđi" chính là nguyên tố nằm trong "nhóm của Bo" mà Menđêlêep đã dự đoán. Mọi người phát hiện ra rằng lý luận về quy luật tuần hoàn của các nguyên tố không chỉ có thể dự kiến vị trí cho các nguyên tố chưa tìm ra "mà còn có thế biết trước được tính chất quan trọng của chúng".

"Nguyên lý hóa học" của Menđêlêep đã được đánh giá rất cao, trở thành bộ sách giáo khoa kinh điển được thế giới công nhận. Có người đánh giá Menđêlêep như sau: "Trong lịch sử hóa học, ông dùng một chủ đề đơn giản mà đã gọi ra được cả thế giới".

 Ngày 19/8/1887 là ngày Nhật thực, một cơ hội hiếm có, lúc đó ông tuổi đã ngoài 50 nhưng vẫn quyết định bay vào không trung một mình để không bỏ lỡ thời cơ. Nhật thực toàn phần lần trước cách đây 19 năm, nhà thiên văn học người Pháp dùng kính phân tích ánh sáng nhìn thẳng lên mặt trời Nhật thực, thấy xuất hiện một vạch sáng màu vàng. Mọi người đều đoán đó là nguyên tố mới gọi là Hêli. Ông nghi ngờ là có tồn tại nguyên tố này không? Nếu không có lần quan sát này, nghi ngờ của ông không giải toả được. Chuyến bay thành công, Học viện Hàng không khí tượng Pháp đã tặng Menđêlêep Kỷ niệm chương.

Lý luận về quy luật tuần hoàn của các nguyên tố không chỉ dự kiến vị trí cho các nguyên tố chưa tìm ra "mà còn có thể biết trước được tính chất quan trọng của chúng". "Nguyên lý hóa học" của Menđêlêep đã được đánh giá rất cao, trở thành bộ sách giáo khoa kinh điển được thế giới công nhận. Trong lịch sử hóa học, Menđêlêep được đánh giá là người dùng một chủ đề đơn giản mà đã gọi ra được cả thế giới.
ST

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

Những ngày cuối cùng của nhà vật lý vĩ đại A.Einstein

Trên bức tường đá trắng của tòa đại giáo đường, bên bờ đông sông Hudson tại thành phố New York, có chạm khắc nổi chân dung 600 vị danh nhân có ảnh hưởng bậc nhất đối với loài người. Họ là các bậc hiền triết, quân vương, tổng thống, nguyên soái, tướng lĩnh, trí giả, còn có 14 vị là nhà khoa học. Trong đó có nhà vật lý Einstein - cha đẻ của “thuyết tương đối
Năm 1952, nhà vật lý vĩ đại Einstein đã cận kề tuổi "cổ lai hy". Lúc này đã về hưu, nhưng mỗi ngày cứ vào khoảng 10.30am, ông lại lững thững đi bộ từ nhà tới Viện Nghiên cứu cao cấp. Đứng trước từng hàng công thức ông viết trên tấm bảng đen nhỏ, ông lại chìm trong nghiên cứu triền miên không ngưng nghỉ. Đến giữa trưa, ông lại đi bộ về nhà. Buổi chiều, ông lại bận bịu xử lý thư tín, hoặc tiếp đón khách khứa tới thăm.

Ngày 9/11/1952, người bạn cũ của Einstein, ngài Weizman, vị Tổng thống đầu tiên của Nhà nước Israel qua đời. 9.00pm hôm đó, Einstein nhận được cuộc điện thoại của ngài Đại sứ Israel từ Washington gọi tới: "Thưa ngài giáo sư, tôi muốn hỏi ngài một câu, nếu nêu tên ngài trong danh sách người ra tranh cử chức tổng thống Israel, liệu ngài có vui lòng tiếp nhận không?”. Viên Đại sứ hỏi với thái độ chân thành, chứa chan hy vọng. Ông ta phụng mệnh vị thủ tướng nước Cộng hòa Israel gọi điện ướm hỏi, thăm dò. "Thưa ngài đại sứ, về mặt khoa học tự nhiên, tôi có đôi phần am hiểu, còn về con người, thì tôi mù tịt, chẳng hiểu chút xíu nào, với một kẻ như vậy thì làm tổng thống sao đặng?".

"Thưa ngài giáo sư, Weizman, vị tổng thống quá cố cũng là giáo sư đó thôi, tin rằng ngài cũng thừa sức làm tổng thống!”.

"Không, Weizman và tôi khác nhau nhiều, ông làm được, còn tôi thì không thể!”.

Einstein sức khỏe ngày càng kém, ông tự biết rằng quỹ thời gian dành cho mình không còn dài nữa. Ngày 13/4/1955, Einstein ngã bệnh. Khối u động mạch chủ đã di căn. Từ mấy năm trước đó, bác sĩ từng nhắc nhở mang tính cảnh báo, rằng ông phải hết sức chú ý bảo vệ sức khỏe bản thân, bởi động mạch chủ có thể bục vỡ bất kỳ lúc nào. Khi đó Einstein nửa đùa, nửa thật: "Ôi, cứ để cho nó bục tóe loe ra!"...
 
Nhà vật lý vĩ đại A.Einstein
Ngày 16/4, bệnh tình xấu đi trông thấy, trong thời gian này, Einstein thường từ chối cho tiêm morphine giảm đau, và kiên quyết từ chối mọi can thiệp phẫu thuật ngoại khoa. “Tôi muốn đi lúc nào thì sẽ đi, dùng phương pháp nhân tạo để kéo dài thêm sự sống thực ra chẳng có ý nghĩa gì; tôi đã đến điểm chót trách nhiệm của mình rồi, khi tôi phải ra đi, tôi sẽ bình tĩnh, thanh thản chờ đợi tử thần”.

Khi nói về "hậu sự" của mình, ông dặn: Sau khi ông về với đất, không được biến nơi ông ở thành "nhà tưởng niệm" để mọi người "pilgrimage" (hành hương về lễ thánh), phòng làm việc của ông trong Viện Nghiên cứu cao cấp nhất định phải để cho người khác sử dụng. Ông thiết tha mong rằng, ngoài lý tưởng khoa học và lý tưởng xã hội của ông ra thì tất cả mọi danh tiếng của ông hãy để ông mang theo về cõi chết.

Tối khuya ngày 17/4, ông chập chờn bước vào giấc ngủ, ông mệt mỏi quá rồi. 0.40am ngày 18/4, cô y tá trực phát hiện thấy nhịp thở của Einstein rất khác thường, cô vội gọi thêm một y tá nữa tới, giúp nâng cao thêm đầu giường. Lúc này Einstein đang lầm bầm nói câu gì đó trong miệng, chỉ thấy đôi môi mấp máy, phát ra âm thanh thều thào nghe  không rõ, nhưng biết chắc là ông đang nói tiếng Đức, đó là thứ ngôn ngữ thường dùng của cha mẹ ông. Einstein quyết không bao giờ tha thứ cho Đức Quốc xã khi ông biết được rằng bọn Quốc xã khát máu đã sát hại tới 1/2 tổng số người Do Thái châu Âu, đồng bào của ông.

Cuối cùng, ông hít thở thật sâu 2 cái, như cố níu kéo mang đi theo mọi nỗi ưu tư, rồi nhẹ nhàng ra đi mãi mãi. Lúc đó kim đồng hồ chỉ 1.15am ngày 18/4/1955, ông hưởng thọ 76 tuổi. 8.00am, tin điện truyền đi khắp trái đất: Nhà vật lý học vĩ đại nhất mọi thời đại Albert Einstein đã qua đời.

Trong ngày cuối cùng của đời mình, Einstein  đã dặn dò người nhà: Chớ có tổ chức nghi lễ đám tang, không xây mộ phần và cũng đừng dựng bia ghi công tưởng niệm.

2.00pm, xe tang đưa thi hài ông tới khu nghĩa trang Mather Princetonf. Rất lặng lẽ, không cử hành nghi lễ nhiêu khê, không vòng hoa, không đội quân danh dự, không cả điếu văn, diễn thuyết, chỉ có người nhà và thêm mấy người bạn chí thân. 90 phút sau, ông được hỏa táng và tro xương được rải ở một nơi nào đó mà cho tới nay - 55 năm đã trôi qua vẫn chưa được hé lộ.
PMC
(Theo Viet Times)

Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

Thuyết tương đối rộng: Các lỗ đen & Sóng hấp dẫn

Thuyết tương đối rộng: Các lỗ đen
Không bao lâu sau khi Einstein đề xuất lí thuyết tương đối rộng của ông, một nhà vật lí người Đức tên là Karl Schwarzschild đã tìm ra một trong những nghiệm đầu tiên và quan trọng nhất của các phương trình trường Einstein. Ngày nay được gọi là nghiệm Schwarzschild, nó mô tả hình dạng của không-thời gian xung quanh các ngôi sao cực kì đặc – và nó có một số đặc điểm rất kì lạ.

Trước tiên, ở ngay tại tâm của những vật thể như vậy, độ cong của không-thời gian trở nên vô hạn – tạo ra một đặc điểm gọi là một kì dị. Một đặc điểm còn lạ hơn nữa là một mặt cầu không nhìn thấy, gọi là chân trời sự cố, bao xung quanh điểm kì dị đó. Không có gì, kể cả ánh sáng, có thể thoát ra khỏi chân trời sự cố. Bạn hầu như có thể nghĩ điểm kì dị Schwarzschild là một cái lỗ trong cấu trúc của không-thời gian.

Đài thiên văn tia X Chandra đã xác nhận các ý tưởng dựa trên nền thuyết tương đối của chúng ta về vũ trụ. (Ảnh: Trung tâm Đài thiên văn tia X Chadra)
Vào những năm 1960, nhà toán học người New Zealand Roy Kerr đã phát hiện ra một họ nghiệm tổng quát hơn cho các phương trình trường Einstein. Những nghiệm này mô tả những vật thể đang quay tròn, và chúng còn kì lạ hơn cả nghiệm Schwarzschild.

Các vật thể mà các nghiệm Schwarzschild và Kerr mô tả được gọi là các lỗ đen. Mặc dù không có lỗ đen nào từng được trông thấy trực tiếp, nhưng có bằng chứng không thể chối cãi rằng chúng tồn tại. Chúng thường được phát hiện ra qua tác dụng mà chúng để lại trên các vật thể thiên văn lân cận như các ngôi sao hay chất khí.

Những lỗ đen nhỏ nhất có thể được tìm thấy xuất hiện cùng với các ngôi sao bình thường. Khi ngôi sao quay xung quanh lỗ đen, nó từ từ bị hút lấy một phần vật chất và phát ra tia X. Lỗ đen đầu tiên như vậy được quan sát thấy là Sygnus X-1, và hiện nay có một số cặp đôi tia X đã được xác định rõ ràng với các lỗ đen chừng bằng 10 lần khối lượng mặt trời.

Bằng chứng cho những lỗ đen lớn hơn nhiều xuất hiện trong thập niên 1960 khi một số vật thể rất sáng và xa xôi đã được quan sát thấy trên bầu trời. Gọi là các quasar, chúng phát sinh từ các lỗ đen bị phá hủy có vẻ sinh ra tại lõi của các thiên hà. Chất khí ở chính giữa của một thiên hà hình thành nên một đĩa xoáy tít khi nó bị hút vào trong lỗ đen. Sức mạnh của lực hút của lỗ đen làm xoáy tít chất khí làm phát ra những lượng năng lượng khổng lồ có thể nhìn thấy ở cách xa nhiều tỉ năm ánh sáng. Các ước tính hiện nay đặt những lỗ đen này nằm trong khoảng giữa một triệu và một tỉ lần khối lượng của mặt trời. Kết quả là chúng được gọi là các lỗ đen siêu khối lượng.

Bằng chứng hiện nay ủng hộ cho việc có một lỗ đen siêu khối lượng nằm tại tâm của mỗi thiên hà, trong đó có thiên hà của chúng ta. Thật vậy, các quan sát quỹ đạo của các sao nằm gần tâm của Dải Ngân hà cho thấy chúng đang chuyển động trong những quỹ đạo ngày càng thu hẹp lại. Những quỹ đạo này có thể hiểu được nếu không-thời gian mà chúng tồn tại trong đó bị bóp méo đáng kể bởi sự có mặt của một lỗ đen siêu khối lượng gấp hơn 4 triệu lần khối lượng của mặt trời.

Bất chấp tên gọi của chúng, nhà vật lí người Anh Stephen Hawking đã chỉ ra rằng các lỗ đen có lẽ không hoàn toàn đen. Ông cho rằng, ở gần chân trời sự cố, sự sản sinh lượng tử của các hạt và phản hạt có thể dẫn tới một sự phát sáng rất yếu. Lóe sáng này, trở nên nổi tiếng là bức xạ Hawking, cho đến nay chưa được phát hiện ra vì nó quá mờ nhạt. Nhưng, theo năm tháng, bức xạ Hawking sẽ đủ để lấy hết năng lượng và khối lượng ra khỏi một lỗ đen, làm cho toàn bộ các lỗ đen cuối cùng bị bốc hơi và biến mất.

Thuyết tương đối rộng: Sóng hấp dẫn
Theo thuyết tương đối rộng, ngay cả không-thời gian trống rỗng, không có ngôi sao và thiên hà nào, cũng có một cuộc sống của riêng nó. Các gợn sóng gọi là sóng hấp đẫn có thể truyền qua không gian theo kiểu giống hệt như các gợn sóng lan đi trên mặt hồ nước.

Một trong những phép kiểm tra còn lại của thuyết tương đối rộng là đo các sóng hấp dẫn một cách trực tiếp. Để kết thúc câu chuyện này, các nhà vật lí thực nghiệm đã xây dựng Đài thiên văn Sóng hấp dẫn Giao thoa kế laser (LIGO) ở Hanford, Washington, và Livingston, Louisiana. Mỗi thí nghiệm gồm các chùm laser phản xạ giữa các gương đặt cách nhau 4 km. Nếu một sóng hấp dẫn đi qua, nó sẽ làm không-thời gian biến dạng một chút, dẫn tới một sự dịch chuyển ở các chùm laser. Bằng cách theo dõi các biến thiên thời gian ở các chùm laser, người ta có thể tìm kiếm các tác dụng của sóng hấp dẫn.

Cho đến nay, không có ai từng phát hiện ra sóng hấp dẫn một cách trực tiếp, nhưng chúng ta thật sự có bằng chứng gián tiếp rằng chúng tồn tại. Khi các pulsar quay xung quanh những ngôi sao rất đặc, chúng ta hi vọng chúng phát ra một luồng đều đặn những con sóng hấp dẫn, mất dần năng lượng trong quá trình đó nên quỹ đạo của chúng từ từ nhỏ đi. Phép đo sự phá vỡ quỹ đạo của các pulsar kép đã xác nhận rằng chúng thật sự mất năng lượng và lời giải thích tốt nhất là những pulsar này đang mất năng lượng ở dưới dạng sóng hấp dẫn.
Sóng hấp dẫn lan truyền trong không gian (Ảnh: Henze/NASA)
Pulsar không phải là nguồn được trông đợi duy nhất của sóng hấp dẫn. Big Bang phải tạo ra sóng hấp dẫn vẫn lan truyền trong vũ trụ dưới dạng những gợn nhẹ nhàng trong không-thời gian. Những con sóng hấp dẫn nguyên thủy này quá yếu để có thể phát hiện ra trực tiếp, nhưng người ta có thể nhìn thấy dấu vết của chúng trên bức xạ tàn dư từ thời Big Bang – phông nền vi sóng vũ trụ. Các thí nghiệm hiện nay đang được triển khai để tìm kiếm những dấu vết này.

Sóng hấp dẫn cũng sẽ được phát ra khi hai lỗ đen va chạm nhau. Khi chúng xoáy trôn ốc về phía nhau, chúng sẽ phát ra một luồng sóng hấp dẫn với một dấu vết đặc biệt. Biết được va chạm đó đủ gần và đủ dữ dội, người ta có thể quan sát chúng với các thiết bị trên trái đất.

Một dự án nhiều tham vọng hơn là Anten Vũ trụ Giao thoa kế Laser (LISA), gồm bộ ba vệ tinh sẽ theo dõi trái đất trong quỹ đạo của nó quay xung quanh Mặt trời. Chúng sẽ phát ra các chùm laser được điều chỉnh hết sức chính xác về phía nhau, giống hệt như LIGO. Mọi con sóng hấp dẫn đi sẽ làm biến dạng không-thời gian đi một chút và dẫn tới một sự dịch chuyển có thể phát hiện ra ở các chùm laser. NASA và Cơ quan Vũ trụ châu Âu hi vọng phóng LISA lên quỹ đạo trong thập niên kế tiếp.

Du hành thời gian
Lí thuyết của Einstein cho phép một khả năng làm say đắm lòng người là du hành thời gian. Người ta đã đề xuất phương pháp thu được kì công này, gồm việc xây dựng các đường hầm gọi là lỗ sâu đục nối liền những phần khác nhau của không gian ở những thời điểm khác nhau. Có thể xây dựng các lỗ sâu đục – trên lí thuyết. Nhưng thật không may, chúng đòi hỏi vật chất có năng lượng âm, và những tình huống vật lí không tự nhiên khác, không chỉ mở chúng ra mà còn cho phép chúng đi qua được. Một khả năng khác là tạo ra một vùng không gian rộng lớn quay tròn, hoặc sử dụng các đối tượng giả thuyết gọi là các dây vũ trụ.

Khả năng du hành thời gian có thể dẫn tới các nghịch lí vật lí, thí dụ như nghịch lí ông-cháu trong đó nhà du hành thời gian đi ngược dòng thời gian và giết chết ông của cô trước khi ông ta gặp bà của cô. Hệ quả là một trong hai người, cha mẹ của cô, không ra đời được và bản thân nhà du hành vũ trụ trên sẽ không tồn tại. Tuy nhiên, người ta cho rằng các nghịch lí vật lí như thế này, trên thực tế, không thể nào tạo ra được.
ST

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Ngày sinh ảnh hưởng tới số phận mỗi người?

Các nhà khoa học đã phát hiện rất nhiều điều liên quan đến tháng sinh như sự thừa cân, tính tình lạc quan hay bi quan, và thậm chí có bao nhiêu con…

Căn cứ trên thống kê về tháng năm sinh và ngoại hình, tính cách, bệnh tật, số phận… người ta đã tìm ra những mối liên quan nhất định giữa ngày tháng sinh với số phận mỗi người.
Trong những tháng mang thai đầu tiên của một người mẹ, các yếu tố môi trường (thời tiết, thức ăn, nhiễm trùng theo mùa) có ảnh hưởng quan trọng tới thai nhi một cách khác nhau.
Tất nhiên, chẳng ai có thể nói tháng nào là tháng tốt nhất mà chỉ có thể cho rằng mối tháng đều có ưu và nhược điểm của nó, lợi về mặt này lại hại về mặt khác. Có điều là biết được những gì có thể xảy ra, bạn có thể điều chỉnh lại cách sống của mình và chủ động đối phó với những rắc rối.

Những đứa trẻ sinh ra vào mùa đông
Hầu hết mọi người thuận tay trái được sinh ra trong những tháng lạnh nhất là tháng 12, tháng 1 và tháng 2 (và theo thời tiết, đó là những tháng có nhiệt độ thấp nhất nên người châu Âu quy định đó là mùa đông).
Trẻ em sinh mùa đông lớn lên thường có khuynh hướng mắc các bệnh tim mạch - theo các nhà nghiên cứu thuộc Trường đại học Bristol và Edinburgh (Anh Quốc). Nguy cơ mắc các bệnh tim mạch ở "trẻ em mùa đông" hơn trẻ em sinh ra trong các mùa khác là 24%.
Đồng thời vào mùa đông, các bà mẹ do phải chống rét nên chế độ ăn nhiều mỡ cũng tạo cho các bà mẹ có mỡ máu cao. Vì thế nếu sẽ phải sinh vào mùa đông, các bà mẹ nên chú ý đặc biệt đến chuyện ăn kiêng.
Theo các nhà tâm lý học, những người sinh vào mùa đông thường là những người thành đạt. Họ năng động, có tài và có ý chí. Họ biết cách làm việc, tự tin trong hành động, chủ động gạt bỏ những khó khăn trên đường đời và do vậy dễ thành công.
Tuy nhiên, trẻ em sinh trong mùa đông thường tự kiêu và cứng đầu. Từ khi còn nhỏ chúng hay cãi lại bố mẹ, không dễ dàng thừa nhận sai lầm, khó làm việc theo nhóm và thường xây dựng gia đình muộn.
Ảnh: essentialbaby.com.au

Những đứa trẻ sinh ra vào mùa xuân
Trẻ em sinh vào mùa xuân (tháng 3, tháng 4 và tháng 5) rất nhạy cảm với thời tiết, dễ bị cảm lạnh, dị ứng, hay ốm đau hơn trẻ em sinh ra trong những mùa khác. Bởi vậy các bậc che mẹ phải quan tâm đến chúng nhiều hơn. Hãy chú ý đến dự báo thời tiết hàng ngày để giúp chúng đối phó kịp thời.
Các nhà tâm lý học cho rằng những người sinh ra trong mùa xuân thường sống theo cảm tính, không quyết đoán, dễ bị thuyết phục và phụ thuộc vào người khác. Không ham làm lãnh đạo. Trẻ em sinh trong mùa xuân thường rất dễ bảo, biết vâng lời, có tính tỉ mỉ và biết lắng nghe.
Chúng thực ra có những ý kiến chính xác về nhiều vấn đề nhưng không muốn nói ra và thực hiện ý định của mình, ngại tranh luận, dễ sống trong tập thể. Nhiệm vụ của các bậc cha mẹ sinh con trong mùa xuân là phải chú ý rèn luyện cho chúng lòng tự tin, chủ động, có ý chí và tham vọng, kiên nhẫn, dám làm dám chịu.

Những đứa trẻ sinh ra vào mùa hè
Trẻ sinh ra trong mùa hè (tháng 6, 7 và 8) lạc quan, may mắn và vui tính - điều này đã được các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Hertfordshire chứng minh.
Người sinh ra trong mùa hè thường tự đánh giá cao về mình, hài lòng với bản thân nên lạc quan, yêu đời, luôn thấy mình hạnh phúc. Các nhà tâm lý học cho rằng họ thuộc loại người nhạy cảm, tốt bụng, rộng rãi, bốc đồng, có thể nóng tính nhưng không thù dai hay thành kiến.
Họ sẵn sàng chấp nhận những rủi ro, mạo hiểm, ưa thích những chuyến đi xa. Cha mẹ của những đứa trẻ sinh vào mùa hè nên tạo điều kiện cho chúng tham gia vào công tác xã hội, các phong trào tình nguyện, khuyến khích chúng bênh vực những bè bạn cùng lớp yếu hơn mình.

Những đứa trẻ sinh vào mùa thu
Trẻ sinh ra trong mùa thu (tháng 9, tháng 10 và tháng 11) nói chung sẽ sống lâu hơn những bạn đồng trang lứa. Sau khi phân tích những số liệu thống kê về cuộc đời của hơn 1 triệu người từ Australia đến Na Uy, các nhà khoa học thấy họ đều có tuổi thọ cao.
Họ sống khoan dung, luôn luôn điềm tĩnh, thận trọng và tỉ mỉ trong công việc, giải quyết các vấn đề thường có lý có tình và luôn là người có uy tín trong xã hội.
Trẻ em sinh vào mùa thu siêng năng trong học tập, ít gây gổ cãi nhau với bạn bè, sớm hiểu được giá trị của đồng tiền và biết vâng lời. Các bậc cha mẹ có con sinh ra trong mùa thu đã có một “nguyên liệu quý” để tạo ra những người công dân gương mẫu. Hãy cố gắng hướng cho chúng đi đúng hướng.

Theo Vietnamnet

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

Giải mã bí mật đằng sau hiện tượng cầu vồng

Cầu vồng lửa, cầu vồng song sinh… được lý giải như thế nào?
Cầu vồng là hiện tượng quang học thiên nhiên mà hầu như ai trong chúng ta đều từng được chiêm ngưỡng. Ở nhiều nền văn hóa khác nhau, cầu vồng xuất hiện được coi là mang đến điềm lành cho nhân thế. "Vòng cung rực rỡ" này luôn ẩn chứa nhiều điều lý thú. 
Giải mã bí mật đằng sau hiện tượng cầu vồng
Cầu vồng bản chất là sự tán sắc ánh sáng Mặt trời khi khúc xạ và phản xạ qua các giọt nước mưa. Cầu vồng thực ra có rất nhiều màu sắc, trong đó có 7 màu nổi bật là đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím.
Một điều mà nhiều người ít để ý là màu sắc của cầu vồng rất có quy luật: màu đỏ bao giờ cũng nằm trên cao nhất và màu tím luôn nằm ở dưới cùng. Nguyên nhân là vì nó phụ thuộc vào các giọt nước phản xạ.
Những giọt nước ở trên cao bao giờ cũng tạo nên màu đỏ, trong khi những giọt thấp hơn lại khúc xạ ra màu lam. Ở các góc độ khác nhau, cầu vồng lại mang những hình thù nhất định khiến ta có cảm giác nó đang di chuyển. Giọt nước càng to thì màu của cầu vồng càng rõ và ngược lại.
Giải mã bí mật đằng sau hiện tượng cầu vồng
Không bao giờ có chuyện hai người cùng nhìn thấy một chiếc cầu vồng giống nhau, bởi muốn quan sát cầu vồng ta phải chờ khi mặt trời tạo góc dưới 42 độ so với chân trời, khi cao hơn 42 độ thì ta không thể thấy nó nữa.

Bên cạnh đó, vì Trái đất của chúng ta có độ cong nên ta chỉ có thể thấy được một nửa cầu vồng. Chỉ khi nào quan sát bằng vệ tinh hay tàu vũ trụ, cả một vòng cầu vồng mới hiện ra trước mắt. Thật ra thì nếu nhìn từ máy bay hay đứng trên một núi cao nhìn xuống, đôi khi, ta có thể thấy cầu vồng dưới dạng một vòng tròn.
Giải mã bí mật đằng sau hiện tượng cầu vồng
Cầu vồng có nhiều dạng: cầu vồng đôi, cầu vồng ba, cầu vồng bốn… Đó là số lượng cầu vồng cùng xuất hiện trên bầu trời, chúng lớn hơn, màu nhạt hơn và thứ tự màu ngược lại so với cầu vồng nhỏ. Giữa các cầu vồng tồn tại khoảng đai vòng tối gọi là dải Alexander.
Giải mã bí mật đằng sau hiện tượng cầu vồng
Nhiều người rất hay nhầm lẫn cầu vồng đôi và cầu vồng song sinh. Trên thực tế, cầu vồng song sinh hiếm gặp hơn rất nhiều. Chúng là hai cầu vồng cùng một nhánh chứ không phải những vòng tròn đồng tâm như cầu vồng đôi. Vì thế, thứ tự màu cũng không bị đảo lộn.
Cầu vồng đôi thường xảy ra khi có hai cơn mưa rào cùng lúc, tức là khi có sự kết hợp của các giọt nước lại với nhau. Người ta cũng đặt tên cho những giọt nước kì diệu gây ra hiện tượng ấy là “giọt burgeroid” vì chúng giống những chiếc bánh hamburger.
Giải mã bí mật đằng sau hiện tượng cầu vồng
Cầu vồng lửa cũng là một điều bí ẩn không kém. Chúng không phải là vòng tròn nhưng có màu giống như cầu vồng đang lan ra bùng cháy nên mới được gọi như trên. Đứng trên khía cạnh khoa học, chuyên gia Les Cowley giải thích rằng, nó đơn giản chỉ là những đám mây bị lạnh đột ngột trên cao, trong thời tiết nắng ráo, hình thành những “lưỡi mây” đa sắc màu như ta thấy.
Giải mã bí mật đằng sau hiện tượng cầu vồng
Người ta thường nói “cầu vồng sau cơn mưa”. Câu nói này đúng nhưng chưa hẳn chính xác hoàn toàn. Những màn sương mỏng cũng có khả năng tương tự  trong điều kiện không khí bị lạnh đột ngột. Khi ấy hiện tượng xuất hiện gọi là “fogbow” (cầu vồng sương). Thậm chí, không chỉ ánh sáng Mặt trời mà ánh sáng Mặt trăng cũng có thể tạo ra điều kì diệu - “cầu vồng Mặt trăng”.

So với cầu vồng song sinh, nó còn hiếm xảy ra hơn nữa. Chỉ khi hội tụ đủ 3 yếu tố trăng thấp, tròn và mưa cùng lúc mới có cơ may được chứng kiến. Trên Trái đất, Vườn Quốc gia Yosemite là nơi hay xảy ra hiện tượng này nhất bởi ở đây, bọt nước ở thác có thể thay thế được những giọt mưa.
Kenh14.vn

Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

Lốc xoáy/ vòi rồng là gì?

Trận lốc xoáy ở Oklahoma đầu tuần này đã thu hút sự chú ý của cả thế giới bởi sức tàn phá của nó. Vậy lốc xoáy là gì? Lốc xoáy được hình thành như thế nào?
Lốc xoáy (vòi rồng) là gì?
Theo từ điển khí tượng học, lốc xoáy là "một cột khí xoáy dữ dội, hút từ bề mặt đất lên đám mây vũ tích, tạo thành hình như cái phễu di động lủng lẳng từ một đám mây, trông giống như cái vòi".

Nghĩa là, để cho một cơn lốc được phân loại là một cơn lốc xoáy, nó phải được tiếp xúc với mặt đất và đám mây.
Lốc xoáy/ vòi rồng
Lốc xoáy hình thành như thế nào?
Câu trả lời kinh điển, cũng là đơn giản nhất – "Khí nóng ẩm từ vịnh thổi vào gặp không khí lạnh và khô từ núi". Nhiều cơn bão được hình thành từ những điều kiện tương tự nhưng không bao giờ, thậm chí là gần tạo ra được lốc xoáy. Thực tế này vẫn chưa được giải thích đầy đủ. Đó cũng là lý do tại sao ở Việt Nam không xảy ra hiện tượng lốc xoáy như ở bang Oklahoma mới đây.

Còn theo Wikipedia, lốc xoáy phát triển từ một cơn dông, thường từ ổ dông rất mạnh hay siêu mạnh, nên ở đâu có dông dữ dội là ở đó có thể có lốc xoáy, song cũng may là nó rất hiếm. Cũng có khi nó sinh ra từ một dải gió giật mạnh (được gọi những đường tố) hay từ một cơn bão. Người ta cho rằng khi không khí ở lớp bên trên lạnh đè lên lớp không khí nóng ở phía dưới, không khí nóng sẽ bị cưỡng bức chuyển động lên rất mạnh. Nhưng khi lốc xoáy xảy ra trên mặt nước thì thường lại không thấy đối lưu và cũng không thấy sự khác biệt nhiệt độ giữa các lớp. Vì vậy nguyên nhân lốc xoáy con người vẫn chưa hoàn toàn hiểu được hết.

Tuy vậy, phần lớn lốc xoáy được hình thành từ một dạng mây dông đặc biệt là mây dông tích điện. Một đám mây có thể kéo dài trong vài giờ, xoáy tròn trong vùng có đường kính từ 10 đến 16 km, di chuyển hàng trăm dặm và sinh ra vô số ống hút khổng lồ. Nguồn gốc của chúng là vùng khí hậu có luồng khí nóng đi lên và luồng khí lạnh đi xuống.
Lốc xoáy/ vòi rồng
Đầu tiên là quá trình tương tác giữa cơn dông có chiều lên trên và gió. Sự tương tác này sẽ làm cho tầng khí nóng ở dưới di chuyển lên trên và xoay tròn trong không trung.

Tiếp đó là sự phát triển của dòng khí lạnh di chuyển theo hướng đi xuống mặt đất ở phía bên kia của cơn bão. Vận tốc của dòng khí đi xuống có thể lớn hơn 160 km/h.

Một trận lốc xoáy kéo dài bao lâu?
Lốc xoáy có thể kéo dài từ vài giây cho đến hơn 1 giờ. Cơn lốc xoáy diễn ra lâu nhất trong lịch sử cho đến nay chưa được biết đến bởi có quá nhiều cơn lốc xoáy "tuổi thọ" lâu đã được ghi nhận từ giữa những năm nửa đầu thế kỷ 20. Hầu hết trận lốc xoáy kéo dài chưa đến 10 phút.
Trận lốc xoáy ở bang Oklahoma vừa qua kéo dài hơn 40 phút.

Cường độ lốc xoáy F là gì?
Tiến sỹ T. Theodore Fujita đã phát triển được một hệ thống phân biệt cấp độ của lốc xoáy dựa trên việc đo tác hại lên các công trình do cường độ gió.
Lốc xoáy/ vòi rồng
Thang độ F ban đầu F-scale đã không còn được sử dụng nữa, thay vào đó là một phiên bản được cải tiến. Tốc độ gió lốc xoáy nói chung vẫn còn là một bít ẩn và tốc độ gió trên F-cale phiên bản đầu tiên chưa bao giờ được thử nghiệm và chứng minh một cách khoa học. Bởi vì thiệt hại tương tự có thể là do các trận gió khác nhau, phụ thuộc vào cấu trúc của công trình có chất lượng như thế nào, hướng gió, thời gian diễn ra…

F-scale đã được cải tiến xếp hạng thiệt hại do lốc xoáy gây ra từ F0-F5 dựa trên các tiêu chí như tòa nhà, cây cối, cấu trúc công trình…

Âm thanh lốc xoáy nghe như thế nào?
Còn tùy thuộc vào việc lốc xoáy tấn công cái gì, quy mô nó như thế nào hay cường độ mạnh hay yếu… Âm thanh lốc xoáy thông thường nhất là nghe như tiếng đùng đùng liên tục, giống như âm thanh khi tàu hỏa sắp đến. Đôi khi lốc xoáy tạo ra tiếng ồn lớn như tiếng thác nước đổ hoặc tiếng ồn mở cửa kính ô tô khi xe chạy cực nhanh.
Thanh Xuân

Bài đăng phổ biến