Hiển thị các bài đăng có nhãn ThuyLoi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ThuyLoi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong quản lý tài nguyên nước

Ngày 21/9, tại Hà Nội, đã diễn ra Hội thảo tổng kết dự án “Tăng cường năng lực cho Trường Đại học Thủy lợi và Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Hà Nội trong bối cảnh biến đổi khí hậu”. Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Chu Phạm Ngọc Hiển đã tham dự và phát biểu tại Hội thảo.

Tham dự Hội thảo có bà Nienke Trooster, Đại sứ Vương quốc Hà Lan tại Việt Nam; đại diện lãnh đạo hai Bộ TN&MT và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; đại diện hai trường Trường Đại học TN&MT Hà Nội và Trường Đại học Thủy lợi, cùng đại diện sinh viên của hai trường.
Trao bằng khen và phần thưởng cho các sinh viên giỏi
Dự án “Tăng cường năng lực cho Trường Đại học Thủy lợi và Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Hà Nội trong bối cảnh biến đổi khí hậu” (NICHE VNM 106) nằm trong khuôn khổ Thỏa thuận Đối tác chiến lược giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hà Lan về thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý nước đã được Thủ tướng hai nước ký ngày 04/10/2010. Dự án được thực hiện tại hai trường trong 5 năm 2012 – 2016 tại Việt Nam.

Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Chu Phạm Ngọc Hiển khẳng định Dự án đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường năng lực cho hai trường đại học thuộc Bộ TN&MT và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Dự án đã được đánh giá là một trong những dự án NICHE thực hiện tại Việt Nam thành công nhất cho đến thời điểm này. Thứ trưởng đánh giá cao các kết quả mà dự án đã đạt được cũng như những lợi ích trực tiếp và gián tiếp mà dự án mang lại cho các đơn vị thuộc Bộ TN&MT nói riêng và các Bộ liên quan nói chung.
Thứ trưởng Chu Phạm Ngọc Hiển cho biết, trong những năm qua, lĩnh vực tài nguyên nước được nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm do những vấn đề hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt, ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Vì vậy, tăng cường năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Toàn cảnh Hội thảo
Sự hợp tác giúp đỡ trong giáo dục đào tạo và nghiên cứu của Hà Lan đã giúp các trường đại học tại Việt Nam từng bước hợp tác và hội nhập nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, tham gia và mạng lưới giáo dục quốc tế với tư cách là một đối tác chính trong mọi lĩnh vực nghiên cứu. Với định hướng ấy, Bộ TN&MT đã hết sức ủng hộ và tạo mọi điều kiện tốt nhất để Trường Đại học TN&MT Hà Nội hoàn thành các mục tiêu dự án đề ra, góp phần nâng cao vị thế của Nhà trường trong xu thế hội nhập và phát triển.

“Thành công và kinh nghiệm thực hiện các dự án NICHE tại Việt Nam, đặc biệt là tại các trường đại học là nguồn lực quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của các trường nhanh, mạnh và bền vững; từng bước đưa vị thế các trường lên một tầm cao mới theo xu hưóng hội nhập với nền giáo dục tiên tiến của thế giới.” - Thứ trưởng Chu Phạm Ngọc Hiển nhấn mạnh.

Để phát triển bền vững các kết quả của dự án NICHE VNM 106 đạt được, Thứ trưởng Chu Phạm Ngọc Hiển mong muốn và đề nghị Chính phủ Hà Lan tiếp tục hỗ trợ cho Trường Đại học TN&MT Hà Nội tăng cường năng lực trong giáo dục đào tạo và đặc biệt là năng lực nghiên cứu khoa học.  Sự hỗ trợ của Hà Lan không chỉ giúp Việt Nam có được nguồn nhân lực chất lượng cao về quản lý tài nguyên nước mà còn đẩy mạnh mối quan hệ bền chặt giữa hai quốc gia Việt Nam – Hà Lan.
Bà Nienke Trooster, Đại sứ Vương quốc Hà Lan tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo
Phát biểu tại Hội thảo, bà Nienke Trooster, Đại sứ Vương quốc Hà Lan tại Việt Nam bày tỏ sự vui mừng trước thành công của dự án đã mang lại. Bên cạnh tăng cường năng lực cho hai trường Đại học TN&MT Hà Nội và Đai học Thủy lợi, dự án đã giúp các sinh viên giải quyết các vấn đề trong xã hội chứ không chỉ tập trung vào lý thuyết. Bà mong muốn các sinh viên và học viên của hai trường sau khi tốt nghiệp sẽ đóng góp vào công cuộc phát triển bền vững Việt Nam.

Dự án đã xây dựng thêm 3 khóa học thạc sĩ về Kỹ thuật bờ biển, Quản lý vùng ven biển và Quản lý thiên tai tại Đại học Thủy lợi, sau khi khóa Thạc sĩ đầu tiên về quản lý tổng hợp tài nguyên nước được triển khai thành công vào năm 2013. Hai trường đã có hơn 40 sinh viên tốt nghiệp chương trình đào tạo đại học về quản lý tổng hợp tài nguyên nước; 07 thạc sỹ theo chương trình tiên tiến; tổ chức gần 10 khóa học tập, bồi dưỡng ngắn hạn. Bên cạnh đó, năng lực nghiên cứu và giảng dạy của giảng viên tại hai trường cũng được tăng cường đáng kể.
Theo Monre.gov.vn

Thứ Hai, 22 tháng 8, 2016

Chuyên gia Việt cảnh báo tác hại khi Trung Quốc 'giữ lũ' Mekong

Chuyên gia hàng đầu về Mekong khẳng định các đập thủy điện của Trung Quốc giữ lại nước nhằm giảm lũ ở hạ nguồn gây tác động xấu đối với Việt Nam.

"Mấy năm nay đồng bằng sông Cửu Long bị mất lũ, là điều rất nguy hại. Chúng ta cần hiểu khái niệm lũ đẹp, tức là lũ giúp điều hoà nguồn nước vào đồng bằng, làm vệ sinh cho đồng ruộng. Lũ cũng sẽ mang phù sa cho trồng trọt, nguồn thức ăn trôi nổi cho nhiều loại cá và giúp giảm xâm nhập mặn ở khu vực này", ông  Đào Trọng Tứ, nguyên phó tổng thư ký Uỷ ban sông Mekong Việt Nam, trao đổi với VnExpress.

Theo Đài Khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ, mực nước vùng đầu nguồn sông Cửu Long thời điểm giữa tháng 8 rất thấp. Trên sông Tiền, tại Tân Châu mực nước cao nhất chỉ 1,36 m; trên sông Hậu tại Châu Đốc là 1,20 m; thấp hơn cùng kỳ năm trước khoảng 40-50 cm.

"Đến nay, chưa có dấu hiệu gì báo lũ về vùng đầu nguồn", ông Khương Lê Bình, Giám đốc Đài Khí tượng thủy văn tỉnh Đồng Tháp, cho biết.

Là một chuyên gia hàng đầu về vấn đề sông Mekong, ông Tứ cho biết các đập thuỷ điện đã giữ lại một lượng lớn phù sa của con sông, trong khi ước tính 50% phù sa của đồng bằng sông Cửu Long là từ trên thượng nguồn đổ về.

Về phía Trung Quốc, các quan chức nước này khi trao đổi với một nhóm phóng viên Việt Nam thăm một số đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong hồi giữa tháng 6, cho biết Trung Quốc hiện có tổng cộng 6 đập thủy điện đang vận hành ở khu vực này, theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là Công Quả Kiều, Tiểu Loan, Mạn Loan, Đại Triều Sơn, Nọa Trát Độ và Cảnh Hồng.

Ông Vương Hồng Minh, Vụ hợp tác quốc tế, Khoa học và công nghệ, Bộ Thủy lợi Trung Quốc, cho hay đặc điểm chung của các đập thủy điện là dùng để phát điện chứ không phải là "tiêu thụ nước". Trung Quốc giữ lại nước trên thượng nguồn nhưng sau đó vẫn xả xuống hạ du, chỉ làm "thay đổi quy trình chứ không làm mất nước đi nơi khác".

"Khi các quốc gia ở hạ lưu đang vào mùa mưa, họ không cần nhiều nước, lúc đó Trung Quốc sẽ tích nước để nhà máy điện hoạt động. Khi vào mùa khô, Trung Quốc sẽ xả nước. Quy trình này có tác dụng ngăn lũ, chống hạn cho các nước hạ du", ông Vương nói.

Phản bác lại ý kiến này, ông Tứ đánh giá khi một quốc gia tích trữ nước của dòng sông tự nhiên thì cơ chế xả nước sẽ vận hành theo phụ tải điện của nước đó.

"Việc xây đập thủy điện không phải làm để xả nước, nếu không tích nước thì không thể phát điện. Câu chuyện đó với đồng bằng sông Cửu Long là gây nên tình trạng bị mất lũ", ông Tứ nói.

Thiếu cơ chế chia sẻ thông tin

Là người theo dõi tình hình ở sông Mekong nhiều năm, ông Tứ cho biết một trong những vấn đề chính ở khu vực này là Trung Quốc vẫn chưa chia sẻ thông tin về cơ chế hoạt động của các đập thủy điện của họ với 4 nước thuộc hạ lưu, gồm Việt Nam, Thái Lan, Campuchia và Lào. Đây là các nước thành viên của Ủy hội sông Mekong (MRC). Điều đó khiến những nước hạ nguồn bị động trong việc sử dụng nguồn nước, nhất là khi xảy ra tình trạng hạn hán trong mùa khô.

Giải thích về việc này, ông Vương Hồng Minh, Bộ Thủy lợi Trung Quốc cho hay Bắc Kinh có chia sẻ thông tin trong mùa lũ với các nước MRC, nhưng họ không làm việc này vào mùa khô.
Đập thuỷ điện Tiểu Loan của Trung Quốc có tổng dung tích 15 tỷ m3.
"Vào mùa khô thông tin về lưu lượng ở thượng nguồn bị tác động bởi các yếu tố như độ bốc hơi, nước ngầm, lượng mưa nên không có nhiều tác dụng cho dự báo. Theo thông lệ quốc tế thì chúng tôi không cung cấp thông tin vào mùa này", ông Vương nói.

Không đồng tình với lập luận này, ông Tứ cho hay thông tin về hoạt động của các đập thuỷ điện cần được chia sẻ cả trong mùa khô và mùa mưa. Hiện các nước trên thế giới áp dụng Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho các mục đích phi giao thông thủy năm 1997. Tức là việc chia sẻ thông tin cần được đảm bảo cho hợp tác quanh năm giữa các nước.

Cựu quan chức Ủy ban sông Mekong Việt Nam cũng lưu ý cần xem xét việc các đập thủy điện của Trung Quốc có hồ điều tiết loại gì. Nếu là hồ điều tiết nhiều năm thì lượng nước được tích lại không phải trong một năm mà là cho nhiều năm.

Đánh giá về cơ chế đối thoại trong hợp tác Lan Thương - Mekong được hình thành vào tháng 3 năm nay, ông Tứ nói việc này phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ của các quốc gia với nhau. Ông mong muốn Trung Quốc thời gian tới sẽ tham gia MRC để cùng các nước hạ lưu xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nước. Hiện Trung Quốc và Myanmar chưa phải thành viên Ủy hội này. Khi cơ chế Lan Thương - Mekong chưa có các hiệp định cụ thể, vấn đề quản lý nước chỉ mang ý nghĩa hợp tác chung chung, trong khi hợp tác phát triển bền vững ở Mekong còn rất nhiều thách thức.

"Với các dòng sông quốc tế, việc các nước có cơ chế hợp tác là điều rất quan trọng, các nước không thể nói anh đi đường anh, tôi đi đường tôi. Các bên cần hợp tác trên tinh thần cùng có lợi, trên cơ sở thiện chí và dựa trên luật pháp quốc tế. Tôi hy vọng cơ chế Lan Thương - Mekong sẽ giúp khắc phục những thiếu sót về hợp tác giữa Trung Quốc và các nước thuộc hạ lưu", ông Tứ nói.
Tác giả bài viết: Theo Việt Anh

Nguồn tin: vnexpress.net

Thứ Hai, 4 tháng 7, 2016

Kinh nghiệm thoát nước từ Hà Lan

Trong vài năm trở lại đây Việt Nam và rất nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á cũng như các nước trên thế giới bị tác động rất lớn do biến đổi khí hậu như triều cường, xâm ngập mặn. Hầu như năm nào cũng bị bão lũ gây ảnh hưởng dẫn đến tình trạng úng ngập tại các đô thị. Các tỉnh Nam bộ chịu nhiều thiệt hại bởi thiên tai khá khốc liệt như xâm ngập mặn, nước biển dâng. 

Thực trạng thoát nước đô thị ở Việt Nam
Phối cảnh dự án cống thoát nước Tân Thuận.
Hệ thống thoát nước hiện có ở các đô thị nước ta từ loại IV trở lên là hệ thống cống chung gồm ống bê tông đúc sẵn, mương gạch đậy nắp đan bê tông, mương đất hở, các kênh mương và hệ thống ao, hồ điều hoà. Hệ thống cống được xây dựng tuỳ tiện không theo quy hoạch phát triển của đô thị, nhiều đoạn cống có tiết diện nhỏ hơn yêu cầu lại không được bảo dưỡng nên khả năng làm việc kém, cần được thay thế hoặc sửa chữa nâng cấp, phần lớn các đoạn cống và mương không có độ dốc phù hợp để tự làm sạch và không có thiết bị để tránh bốc mùi khi thời tiết khô.

Mức độ bao phủ của dịch vụ thoát nước chưa được điều tra khảo sát nhưng theo ước tính của các chuyên gia của Cục Hạ tầng kỹ thuật (Bộ Xây dựng) và của Hội Cấp thoát nước Việt Nam thì thấp hơn mức độ bao phủ của dịch vụ cấp nước, bình quân vào khoảng 30-40%.

Trên hệ thống sông Hồng có hàng loạt hồ chứa có nhiệm vụ phòng lũ, chống lũ có thể chứa nhiều tỷ khối nước, lại có hệ thống đê bảo vệ và những khu phân chậm lũ, nếu lũ lớn uy hiếp Hà Nội, có thể phân lũ vào các khu đó. Bởi vậy, vấn đề phòng lũ của Hà Nội là vận hành tốt hệ thống phòng chống lũ và giữ gìn bảo vệ đê. Tuy nhiên, vấn đề ngập lụt đối với Hà Nội lại là “nội tại” phải giải bài toán thoát nước mưa tại chỗ với hệ thống trạm bơm và các đường tiêu thoát nước. Các điểm ngập trong nội thành chưa được cải thiện vì hệ thống cống từ các ngõ ngách tiểu khu đến các mương, sông còn chưa được đầu tư cải tạo và xây dựng. Do đó, nước mưa không thể tập trung nhanh về kênh dẫn đã cải tạo. Có thể thấy khu phố cổ Hà Nội bao lần mưa lớn không bị ngập nhờ hệ thống thoát nước hợp lý. Nhiều nơi khác của thành phố bị ngập do các hồ điều hòa bị lấp, cống rãnh bị tắc nghẽn, hệ thống bơm chưa phát huy tác dụng, lỗi này một phần do ý thức người dân vì xả rác bừa bãi, tắc cống cũng là một phần làm cho hệt thống thoát nước gặp khó khăn. Đặc biệt, do đường ống thoát nước bé nên việc khơi thông dòng chảy là vô cùng khó khăn. Bên cạnh đó, do công tác quy hoạch và quản lý chưa thực sự đạt hiệu quả nên thực trạng thoát nước tại các đô thị vẫn còn là vấn đề nan giải.

Việc phát triển các khu đô thị lớn về phía Mỹ Đình, Hà Đông cũng chưa quan tâm đến hệ thống thoát nước và đấu nối với các đầu mối thoát nước nên khu vực này là trọng điểm của ngập lụt mỗi lần có mưa. Vì thế, kịch bản khi nước biển dâng, việc thoát lũ càng khó khăn và gặp lúc thượng lưu mưa lớn vượt tần suất thiết kế, các hồ bắt buộc phải xả nước để đảm bảo an toàn cho đập thì thành phố sẽ ra sao?

Theo đánh giá hiện nay, dự án của JICA đã phát huy hiệu quả tiêu thoát nước vùng lõi nội đô cuối năm nay nếu dự kiến mực nước triều đạt đỉnh 1,58m thì sẽ lại là thách thức lớn đối với các dự án chống ngập của thành phố. Vấn đề biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã gây ra xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt. Vấn đề úng ngập, thoát lũ của vùng Đồng Tháp Mười và TP HCM với xu hướng ngày càng gia tăng.

Kinh nghiệm thoát nước từ Hà Lan
 Hà Lan được biết đến là đất nước nằm thấp nhất so với mực nước biển. Vùng trũng nhất ở dưới mực nước biển tới 6,74m. Theo thống kê, 2/3 diện tích của quốc gia này nằm ở khu vực dễ ngập lụt, trong khi mật độ dân số thuộc nhóm đông đảo bậc nhất.

Đặc điểm này đã nhiều lần khiến Hà Lan trải qua những thảm hoạ kinh hoàng. Đỉnh điểm nhất là tháng 2/1953, triều cường dâng cao do ảnh hưởng của một cơn bão đã tàn phá gần như hoàn toàn vùng duyên hải phía nam. Hơn 200.000ha đất trồng trọt bị ngập lụt, 1.835 người bị chết đuối. Cũng từ thảm hoạ này đã lộ ra điểm yếu lớn nhất trong hệ thống các công trình phòng vệ chống nước biển của Hà Lan.

Chính vì vậy, Chính phủ Hà Lan đã ngay lập tức thành lập Uỷ ban Châu thổ nhằm sửa chữa, thi công các công trình phòng vệ chống biển.

Sau một thời gian nghiên cứu thực địa, Ủy ban Châu thổ nước này đã cho ra đời một kế hoạch xây dựng các công trình với tầm vóc và quy mô vĩ đại. Đó là hệ thống các công trình đê biển, kè biển, cửa cống và cửa chắn lụt ở khu vực Tây Nam. Tổng cộng có 65 đê chắn sóng đúc bê tông khổng lồ cùng 62 cửa van bằng thép di động treo giữa các đê chắn với tổng chiều dài 6,8km.

Được biết các cửa van dày 5m và rộng 40m, thay đổi theo độ cao từ 6m đến 12m tuỳ theo vị trí của chúng trong đập chắn. Cửa van lớn nhất nằm ở phần sâu nhất của châu thổ, nặng tới 480 tấn, phải mất cả tiếng đồng hồ mới mở hay đóng cửa van. Các công trình này được xây dựng trong suốt hơn nửa thế kỷ nhằm bảo vệ các khu vực đất đai rộng lớn trong vùng châu thổ trước sự tấn công của nước biển. Đây cũng được ghi nhận là hệ thống phòng hộ duy nhất chống lại sóng biển trên thế giới thuộc loại này.

Hiện tại các chuyên gia Hà Lan đang nghiên cứu và triển khai những dự án xây dựng hệ thống "đê chắn sóng thông minh" bằng cách tích hợp công nghệ cảm ứng để giám sát những con đê, đập nhằm đưa ra những cảnh báo sớm về nguy cơ bị nước biển tàn phá do biến đổi khí hậu. Theo đó, các chuyên gia và các nhà khoa học thủy lợi Hà Lan đang thử nghiệm gắn các chip vào thân đê, đập nhằm mục đích phát hiện sớm và cảnh báo các trận sóng thần và nước biển dâng. Qua đó, với những kinh nghiệm sâu sắc của Hà Lan, đây có thể là những giải pháp hữu hiệu mà Việt Nam có thể áp dụng cho thoát nước tại các đô thị lớn.
Thanh Huyền

(Báo Xây dựng)

Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016

Hình ảnh thủy điện Lai Châu trước ngày phát điện tổ máy số 2

Sau hơn 6 năm xây dựng, Nhà máy thủy điện Lai Châu dự kiến sẽ phát điện tổ máy số 2 ngày hôm nay (20/6), về đích sớm hơn 1 năm so với kế hoạch.


Thủy điện Lai Châu được khởi công ngày 5/1/2011 tại huyện biên giới Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu và là công trình thủy điện trên cùng trên dòng chính sông Đà.

Công trình có tổng công suất lắp máy 1.200 MW và khi hoàn thành, đưa vào sử dụng sẽ cung cấp cho lưới điện quốc gia khoảng 4,7 tỷ KWh điện mỗi năm.

Đập chính thủy điện Lai Châu cao 137 m, dài 493,5 m, sử dụng vật liệu chính là bê tông đầm lặn, đến nay đã hoàn thành 100% khối lượng và đưa vào sử dụng.

Đường dây 500kV Sơn La - Lai Châu có tổng chiều dài là 158,5 km, 311 vị trí cột chạy qua địa phận các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu truyền tải toàn bộ công suất điện của nhà máy.

Đến nay, việc vận hành tổ máy 1 và chạy không tải tổ máy 2 đã được các kỹ sư Công ty Thủy điện Sơn La vận hành an toàn.

Tổ máy số 2, với công suất 400 MW đã được chạy hiệu chỉnh thiết bị, quay không tải đã hoàn thành và đang được chạy thí nghiệm nốt các phần việc còn lại, sẵn sàng cho ngày hòa lưới điện.

Việc lắp đặt các thiết bị tại vị trí tổ máy 3 cũng đã được thực hiện đảm bảo tiến độ và giám sát chặt chẽ.

Theo dự kiến tổ máy số 3 sẽ phát điện hòa lưới vào tháng 11 tới đây và hoàn thành toàn bộ công trình để khánh thành vào tháng 12/2016.

Hiện nay, đơn vị lắp máy LILAMA 10 đang tập trung gần 500 cán bộ, kỹ sư, công nhân thi công tổ máy 3.

Hồ chứa của công trình thuộc địa bàn hai huyện biên giới Mường Tè và Nậm Nhùn và có dung tích trên 1,2 tỷ m3, phục vụ 3 tổ máy.

Theo Khắc Kiên-VOV

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2016

Chính sách pháp luật hiện hành về thủy lợi còn hạn chế

Ngày 7/6, Đoàn giám sát do đồng chí Nguyễn Vinh Hà, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, làm trưởng đoàn đã đi giám sát thực tế tại hồ chứa nước Suối Vực và kênh chính Bắc Thủy nông Đồng Cam; đồng thời làm việc với UBND tỉnh về việc thực hiện chính sách, pháp luật về thủy lợi. Làm việc với Đoàn có đồng chí Lê Văn Trúc, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh, cùng lãnh đạo các sở, ban ngành liên quan.

Theo UBND tỉnh, trong thời gian qua, tỉnh Phú Yên đã lập và thực hiện một số quy hoạch như quy hoạch thủy lợi, quy hoạch cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn, quy hoạch hệ thống đê biển, quy hoạch tổng thể sử dụng tài nguyên nước… Đến nay, toàn tỉnh đã đầu tư, xây dựng được 318 công trình thủy lợi các loại, kiên cố hóa được khoảng 743/2.167km chiếm 34,3% tổng số kênh mương các loại. Với hiện trạng công trình thủy lợi hiện có, tổng năng lực tưới của các hệ thống đảm bảo cho khoảng 53,14% diện tích đất canh tác (lúa, rau màu và cây công nghiệp). Trong đó, diện tích đất trồng lúa được tưới là 57.418ha, đạt 94,6% và khoảng 8.300ha rau màu, cây công nghiệp các loại. Hiện toàn tỉnh có 89 công trình cấp nước tập trung. Đến năm 2015, tỉ lệ số dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 94,32%, trong đó, tỉ lệ số dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt đạt tiêu chuẩn QCVN 02/BYT chỉ 38,8%.
Đoàn giám sát của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường kiểm tra tại đầu mối kênh chính Bắc thủy nông Đồng Cam
Hiện tại, việc thực thi chính sách, pháp luật về thủy lợi trong tỉnh vẫn còn một số tồn tại như: chưa hình thành được hệ thống thanh tra chuyên ngành nên việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết, ngăn ngừa và xử phạt các hành vi vi phạm công trình thủy lợi, đê điều còn nhiều hạn chế; tổ chức, nhân lực thủy lợi cấp xã còn thiếu và không có chuyên môn, do đó hiệu quả quản lý và khai thác các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh chưa cao; mức thu thủy lợi phí chưa đáp ứng được các chi phí để quản lý khai thác công trình thủy lợi. Để công tác thực thi chính sách pháp luật về thủy lợi ngày càng tốt, UBND tỉnh đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật Thủy lợi; các bộ, ngành Trung ương sớm ban hành khung pháp lý cho các cấp ở địa phương về công tác quản lý, bảo vệ khu vực rừng phòng hộ đầu nguồn các hồ chứa nước; xây dựng cơ chế, mức hỗ trợ cho các tổ hợp tác dùng nước quản lý kênh nội đồng…

Kết luận buổi làm việc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Vinh Hà ghi nhận kiến nghị của tỉnh Phú Yên về những bất cập trong công tác quy hoạch, đầu tư và quản lý thủy lợi. Đoàn sẽ có những kiến nghị lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Bộ NN-PTNT để kiện toàn các chính sách pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế ở địa phương; đồng thời sẽ chuyển tải kiến nghị của tỉnh lên Bộ NN-PTNT về việc triển khai xây dựng hồ chứa nước Mỹ Lâm…
Tác giả bài viết: Tuyết Hương

Nguồn tin: baophuyen.com.vn

Thứ Ba, 15 tháng 3, 2016

Hỗn loạn vì siêu hạn hán?

Tình trạng khan hiếm nước và dân số bùng nổ bị xem là 2 yếu tố sẽ góp phần thúc đẩy xung đột, khủng hoảng nhân đạo trong những thập kỷ tới.

Tình trạng hỗn loạn ở Iraq, Syria và sự trỗi dậy của tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng có thể xuất phát từ một nguyên nhân đơn giản: tình trạng hạn hán nghiêm trọng nhất ở Trung Đông trong 900 năm qua.

Hậu quả tất nhiên

Một công trình nghiên cứu mới của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA), được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Địa vật lý - Khí quyển (Mỹ) đầu tháng 3-2016 cho thấy vùng Levant (gồm Cyprus, Israel, Jordan, Lebanon, Syria, Palestine, Thổ Nhĩ Kỳ) vừa phải hứng chịu một đợt siêu hạn hán kéo dài từ năm 1998 - 2012.

“Đợt hạn hán gần đây ở vùng Levant nghiêm trọng hơn 50% so với thời kỳ khô cằn nhất trong 500 năm qua hoặc nhiều hơn 10%-20% so với đợt hạn hán tồi tệ nhất trong vòng 900 năm qua” - cuộc nghiên cứu nêu rõ. Ngoài ra, dòng người tị nạn chạy từ Trung Đông đến châu Âu thời gian qua là hậu quả tất nhiên của điều kiện thời tiết khắc nghiệt này. Tình trạng thiếu nước nghiêm trọng đè nặng lên cuộc sống của nông dân giữa lúc mùa màng thất bát, nhiệt độ tăng cao kỷ lục và các cơn bão cát xảy ra thường xuyên hơn.

Các tác giả cuộc nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh đợt siêu hạn hán vừa qua cho thấy biến đổi khí hậu do con người gây ra đã tác động đến chu kỳ khô hạn tại khu vực. “Mức độ nghiêm trọng của đợt hạn hán cho thấy có yếu tố con người trong đó. Đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy biến đổi khí hậu đang xảy ra” - tiến sĩ Ben Cook, nhà khoa học khí hậu của NASA và là người dẫn đầu cuộc nghiên cứu, kết luận.

Ông Richard Seager, nhà nghiên cứu tại Trường ĐH Columbia (Mỹ), nhận định công trình trên của NASA càng củng cố nhận định mà ông đưa ra hồi năm 2015 rằng đợt hạn hán ở Syria trong giai đoạn 2006-2010 là khác thường và chịu sự tác động của biến đổi khí hậu.

Thúc đẩy xung đột

Thông tin trên chắc chắn khiến Lầu Năm Góc và giới tình báo Mỹ “ăn ngủ” không yên bởi họ từng nhận định tình trạng khan hiếm nước và dân số bùng nổ là 2 yếu tố sẽ góp phần thúc đẩy xung đột, khủng hoảng nhân đạo trong những thập kỷ tới. “Điều quan trọng là cộng đồng an ninh quốc gia xem mối đe dọa từ biến đổi khí hậu không chỉ hiện diện vào thời điểm này mà còn có thể gia tăng mạnh mẽ trong tương lai” - ông Kevin Anchukaitis, nhà khoa học tại Trường ĐH Arizona (Mỹ) có tham gia cuộc nghiên cứu của NASA, kêu gọi.

Đây không phải là lần đầu tiên tình trạng thiếu nước bị xem là yếu tố góp phần làm gia tăng căng thẳng ở Trung Đông. Một nghiên cứu đăng tải trên tạp chí của Viện Hàn lâm Khoa học quốc gia Mỹ hồi tháng 3-2015 đánh giá chính biến đổi khí hậu đã làm hạn hán thêm nghiêm trọng tại Syria, góp phần dẫn đến làn sóng nổi dậy của người dân năm 2011. Đến tháng 8 cùng năm, Viện Tài nguyên thế giới (WRI - Mỹ) cũng cho rằng sức ép từ nguồn nước khan hiếm có thể là một trong những “thủ phạm” gây ra các cuộc xung đột ở Trung Đông, trong đó có Syria.

“Hạn hán và thiếu nước ở Syria có thể đã “châm thêm dầu” vào tình trạng bất ổn dẫn đến cuộc nội chiến năm 2011. Nguồn tài nguyên nước ngày càng cạn kiệt và sự quản lý yếu kém trong thời gian dài buộc 1,5 triệu người, chủ yếu là người làm nông và chăn gia súc, mất kế sinh nhai nên rời bỏ quê nhà đến vùng đô thị kiếm sống. Điều này làm nghiêm trọng thêm tình trạng bất ổn chung của Syria” - báo cáo của WRI nhận định.

Cũng theo WRI, tình hình càng thêm tồi tệ khi chính phủ Syria ứng phó không kịp thời và hiệu quả với tình trạng hạn hán và làn sóng di cư lớn. Người dân khi đó ngày càng bất mãn trước những chính sách bị xem là khuyến khích sử dụng nguồn nước bừa bãi và việc Damascus không hỗ trợ những đối tượng buộc phải rời bỏ nhà cửa vì thiếu nước sinh hoạt, sản xuất.

Đe dọa sức khỏe con người

Một nghiên cứu mới đăng trên Tạp chí Lancet cho thấy tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu lên chất lượng thực phẩm có thể khiến hơn nửa triệu người tử vong mỗi năm vào năm 2050. Đây là cuộc nghiên cứu đầu tiên đánh giá ảnh hưởng của hiện tượng toàn cầu ấm đối với chế độ ăn uống của con người. Kết quả cho thấy sản lượng rau và trái cây cho con người sử dụng sẽ ít hơn do biến đổi khí hậu. Đây là những thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm bớt nguy cơ bị bệnh tim, đột quỵ, ung thư… Từ đó, các tác giả nghiên cứu kết luận biến đổi khí hậu đe dọa đến sức khỏe con người nhiều hơn những gì từng biết.

Theo báo The Guardian (Anh), nhiều bác sĩ cũng nhìn nhận biến đổi khí hậu là mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe con người trong thế kỷ XXI bởi nó làm gia tăng lũ lụt, hạn hán và bệnh truyền nhiễm.
Tác giả bài viết: Xuân Mai

Nguồn tin: nld.com.vn

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2016

Xâm nhập mặn, hạn hán rất khốc liệt

Chưa bao giờ ĐBSCL lại gặp hạn hán, xâm nhập mặn đến sớm và khắc nghiệt như hiện nay. Lúa chết đầy đồng, người dân thiếu nước sinh hoạt
Tại hội nghị “Phòng chống hạn, xâm nhập mặn các tỉnh ĐBSCL” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) tổ chức ở TP Cần Thơ ngày 17-2, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo ưu tiên kinh phí cho Nam Trung Bộ và ĐBSCL chống hạn, xâm nhập mặn.

Tình hình nguy cấp

Theo Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn trung ương Hoàng Đức Cường, El Nino từ năm 2014-2016 sẽ đạt cường độ tương đương với El Nino mạnh kỷ lục của năm 1997-1998 và dự báo kéo dài nhất trong khoảng 60 năm qua (khoảng 20 tháng). Mùa mưa đến trễ nhưng lại kết thúc sớm làm tổng lượng mưa trên lưu vực sông Mê Kông thiếu hụt so với trung bình nhiều năm từ 20%-50%. Vì vậy, năm 2015 chỉ xuất hiện lũ nhỏ dẫn đến dòng chảy chuyển tiếp đầu mùa khô từ thượng lưu chảy về ĐBSCL ở mức thấp nhất trong lịch sử.
Nông dân lấy nước ngọt để sản xuất lúa ở tỉnh Sóc TrăngẢnh: Ngọc Trinh
Trong khi đó, theo nhận định của Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, từ năm 2010 đến nay, Trung Quốc vận hành các đập thủy điện đã làm thay đổi dòng chảy ảnh hưởng đến hạ lưu, làm mặn xâm nhập sớm và sâu hơn. Ngay từ đầu mùa khô năm 2015-2016, do thiếu nước ngọt, nồng độ mặn

4 g/l xuất hiện trong tháng 1-2015 có phạm vi ảnh hưởng từ 40-60 km. Một số tỉnh có xâm nhập mặn đến mức báo động là Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Cà Mau, Bạc Liêu… Tỉnh Bến Tre đã công bố tình trạng thiên tai do xâm nhập mặn.

Vĩnh Long là tỉnh từ trước đến nay ít bị mặn tấn công nhưng trong dịp Tết Bính Thân vừa qua, mặn đã xuất hiện ở huyện Trà Ôn và xã Quới Thiện (huyện Vũng Liêm) trong 2 ngày. Ông Ôn Thanh Ngân, Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Trà Ôn, đánh giá xâm nhập mặn ở ĐBSCL đạt mức kỷ lục trong 100 năm qua.

Tại tỉnh Hậu Giang, nếu như những năm trước chỉ có nước biển Tây xâm nhập thì năm nay, nước biển Đông cũng tấn công. Ở thị xã Ngã Bảy, trong dịp Tết vừa qua, độ mặn tại sông đo được là 2%0. Mặn đã xâm nhập sâu và sớm hơn 1 tháng làm khoảng 400 ha diện tích lúa bị mất trắng.

Tại TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, do bị mặn “ăn” sâu từ tháng 6 đến tháng 7-2015 nên thiếu nước ngọt sinh hoạt. Ngay dịp Tết, các hồ chứa cũng không có nước ngọt gần 1 tuần. Vùng U Minh Thượng bị xâm nhập mặn rất nghiêm trọng, lúa chết đầy đồng.

“Từ nhỏ đến lớn, tôi mới thấy lần đầu tiên mặn và hạn hán đạt kỷ lục như vậy” - ông Mai Anh Nhịn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, nhận xét.

Theo thống kê của Bộ NN-PTNT, do xâm nhập mặn, vụ mùa năm 2015 có 30.000 ha lúa bị hạn, vụ thu đông 2015 có 32.000 ha và vụ đông xuân 2015-2016 có 44.000 ha bị thiệt hại. Trong thời gian tới, có khoảng 60.000 ha nữa bị ảnh hưởng. Nếu thời tiết tiếp tục không thuận lợi, diện tích lúa bị ảnh hưởng có thể lên tới 340.000 ha (chiếm gần 30% diện tích xuống giống lúa vụ đông xuân 2015-2016 toàn ĐBSCL).

Bớt họp, tập trung chống hạn và xâm nhập mặn

Trước tình trạng thiếu nước ngọt, ông Trần Công Chánh, Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang, cho biết đã chỉ đạo khoan ngay 6 giếng nước ngầm, khi đã đủ lượng nước tưới tiêu và sinh hoạt sẽ dừng khoan. Ngoài ra, tỉnh cũng cho làm ngay trạm cấp nước ở huyện Long Mỹ để nâng công suất phát nước do khu vực này thiếu nước ngọt trầm trọng. Tuy nhiên, một số đại biểu tại hội nghị lo ngại rằng việc khai thác nước ngầm gây sụt lún đất, tăng tốc độ xâm nhập mặn.

“Chính phủ đã giao Bộ Xây dựng nghiên cứu đề án dẫn nước ngọt từ sông Hậu về nên việc này phải tiến hành nhanh, làm sớm để cung cấp nước ngọt cho các tỉnh Nam sông Hậu” - một lãnh đạo tỉnh Cà Mau đề nghị.

Sau khi nghe ý kiến của các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia về thực trạng và giải pháp chống hạn, xâm nhập mặn, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo ưu tiên kinh phí cho Nam Trung Bộ và ĐBSCL để chống hạn, xâm nhập mặn; yêu cầu các bộ, ngành, địa phương có nhận thức đúng đắn về mức độ nghiêm trọng của xâm nhập mặn; dừng các cuộc họp không cần thiết để tập trung cho ngăn mặn xâm nhập. Các địa phương tiếp tục triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống hạn, xâm nhập mặn như: nạo vét kênh mương, điều tiết công trình thủy lợi ngăn mặn, tranh thủ các thời điểm thuận lợi để lấy và trữ nước ngọt...
Theo nld.com.vn Ca Linh - Thốt Nốt

Thứ Ba, 26 tháng 1, 2016

Big Dam Bridge

Opened in 2006, the pedestrian and bicycle bridge built over Murray Lock and Dam between Murray Park in Little Rock and Cook’s Landing Park in North Little Rock is a major addition to the Arkansas River Trail, connecting several miles of hiking and biking trails on both sides of the river.   The 15.7 mile Big Dam Loop of the 88-mile Arkansas River Trail System, crosses the river at the Big Dam Bridge on the west with an eastern crossing over a renovated Rock Island Railroad bridge downtown at the Clinton Library.   An extension route to Pinnacle Mountain State Park will connect to the 225 mile Ouachita Wilderness Trail.


The official dedication for the bridge was September 30, 2006.
The project’s official name  is Pulaski County Pedestrian & Bicycle Bridge – Murray Lock and Dam—however, it is known as the Big Dam Bridge and is the world’s longest bridge specifically constructed as a pedestrian/bicycle bridge. At 4,226 feet (1288 m.) in length, the bridge rises to 65 feet over the surface of the Arkansas River and 30 feet over the dam.  The span over the river is 3463 feet (1055 m.), with the ramps on either side of the river accounting for the rest of the length.

It is lit at night with 169  “Illumivision Lightwave LX” fixtures installed at the base of the 13 piers over the dam.  Each light is a “wall washing LED that generates color-changing effects.”

Other dam bridge facts:
  • The bridge has 679 feet of walled embankments.
  • There are eight observation areas with benches.
  • It’s designed to support two 36″ utility pipelines.
  • The structure contains over 3 million pounds of steel.
  • The bridge and associated trails assists in the connection of over 7,000 acres of city, county, state, and federal park land.
  • Oversight of design and construction was provided by the U.S. Army Corps of Engineers to ensure the project would not interfere with navigation, though no corps funds were used in the construction.
  • Funding was through a combination of federal and state transportation funds as well as local funding from Pulaski County and the cities of Little Rock and North Little Rock.
  • It was constructed with “weathering steel girders” to minimize requirements for future maintenance.
  • The bridge is gently sloped to comply with Uniform Federal Accessibility Standards.
  • Using Murray Lock and Dam as foundation saved an estimated $10 million in construction costs

Murray Lock and Dam and the McClellan-Kerr Arkansas River Navigation System (MKARNS) facts:
  • Essentially a series of navigation pools connected by locks, the waterway enables vessels to overcome a 420-foot difference in elevation from the Mississippi River to the head of navigation at Catoosa, Oklahoma.
  • There are 18 locks; 5 in Oklahoma and 13 in Arkansas. All lock chambers are 110-feet wide by 600 feet long.
  • Size of towage accommodated: more than 8 jumbo (35 ft. X 195 ft.) barges with double lockage using tow haulage (Tow haulage equipment on a lock can pull the first cut through by itself, so that the towboat can stay in its original pushing position and lock through with the second cut.)
  • A typical 8-barge 12,000-ton is equivalent to 400 semi-trucks or 120 railroad freight cars.
  • The maximum lift from one navigation pool to another ranges from only 14 feet at lock No. 4 near Pine Bluff to as much as 54 feet at the Dardanelle Lock.
  • The locks are operated 24 hours per day and handle both commercial barges and recreational vessels.
  • Bridges over the channel have a minimum vertical clearance of 52 feet 98% of the time. Actual vertical clearance above the normal level of the navigation pool is normally more than 52 feet.
  • Murray Lock and Dam is #7 going upstream, 125.4 miles from the Mississippi.  Under normal pool conditions, the lower pool level is 231 ft above sea level and the upper pool is 249 ft., for a nominal change in elevation of 18 feet.


www.thuyloivn.com st


Thứ Tư, 13 tháng 1, 2016

Trị thủy - ám ảnh nghìn năm của giới lãnh đạo Trung Quốc

Khát vọng cai trị đất nước từ những bậc đế vương thời xưa cho đến lãnh đạo Trung Hoa hiện đại đều thể hiện qua những công trình xây đập khổng lồ.

Theo BBC, trị thuỷ, đặc biệt là khai thác lợi ích từ nước, đóng vai trò trung tâm của nghệ thuật quản lý nhà nước ở Trung Hoa trong nhiều thiên niên kỷ. Điều này cũng đang được tiếp nối đến hiện tại. Nền kinh tế Trung Quốc đang có dấu hiệu chững lại sau một thời gian dài phát triển nóng, và việc thiếu hụt nguồn nước có thể đem đến những hậu quả nghiêm trọng trong vài thập kỷ tới. 
Đập Tam Hiệp là công trình trong dự án xây dựng kênh đào dài cả ngàn km đưa nước từ sông Dương Tử (Trường Giang) ở phía Nam, có lượng nước lớn, lên sông Hoàng Hà ở vùng đồng bằng phía bắc khô hạn của Trung Quốc. (Ảnh: Reuters)
Đập Tam Hiệp nằm trên sông Dương Tử (Trường Giang) ở Trung Quốc, cách thành phố Nghi Xương 40 km. Trung Quốc tự hào về con đập được nhiều kỷ lục thế giới như "Đổ bê tông cường độ cao nhất"; "Đập tràn xả lũ có lưu lượng lớn nhất"; "Âu tầu nội địa có tổng mực nước chênh lệch cao nhất".

Những đập nước khổng lồ có khả năng cung cấp cho quốc gia khoản năng lượng thuỷ điện đáng kể, đồng thời cắt giảm các nhà máy nhiệt điện dùng than gây ô nhiễm. Đập Tam Hiệp có công suất phát điện thiết kế tới 18,2 GW - gấp 10 lần công suất của nhà máy điện hạt nhân Vịnh Daya ở tỉnh Quảng Đông. Bên cạnh đó, nhiều con đập lớn khác đang từng bước được xây dựng trên những con sông lớn, bao gồm cả con đập đang gây nhiều tranh cãi ở Nộ giang, con sông lớn chảy qua di sản văn hoá thế giới được UNESCO công nhận ở tỉnh Vân Nam, trước khi sang đất Thái Lan và Myanmar.

Mặt khác, nguồn nước ở Trung Quốc đang trong tình trạng bấp bênh do ô nhiễm nặng, xây đập tràn lan, lạm dụng cải tạo đất cộng với tác động của biến đổi khí hậu. Suy thoái môi trường ước tính gây tiêu tốn tới 10% thu nhập quốc nội của Trung Quốc mỗi năm, theo tính toán của Elizabeth C Economy trong cuốn sách "Dòng sông nước đen". Do đó, kiểm soát nguồn nước đang được đặt lên hàng đầu khi xây dựng chính sách.

Tuyên bố của thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng vào thời điểm việc xây dựng con đập được phê chuẩn năm 1992, dường như để khẳng định rằng đây chính là biểu tượng của sức mạnh kinh tế, vị thế chính trị và năng lực kỹ thuật của Trung Quốc.

"Đập Tam Hiệp sẽ cho cả thế giới thấy rằng người dân Trung Quốc có nguyện vọng cao cả đồng thời đủ khả năng xây dựng thành công dự án thuỷ lợi và thuỷ điện lớn nhất thế giới".

Lo ngại

Đập Tam Hiệp đã trở thành biểu tượng ở thời hiện đại của đất nước Vạn Lý Trường Thành, khi cả hai đều có thể nhìn thấy từ không gian. Con số thống kê về con đập thật ấn tượng với 185 m chiều cao, hơn 2 km chiều rộng, tổng cộng gần 30 triệu m2 bê tông được sử dụng và 30.000 ha đất nông nghiệp bị ngập chìm trong nước để tạo ra vùng hồ chứa rộng tới hơn 1.000 km2.

Tuy nhiên, một số nhà phân tích lo ngại số lượng khổng lồ trầm tích tụ sẽ tăng nguy cơ gây lũ ở thượng nguồn sông Dương Tử đoạn qua tỉnh Tứ Xuyên. Ngoải ra, nó còn ảnh hưởng tới kinh tế địa phương, làm biến mất nhiều di sản có giá trị văn hóa và khảo cổ. Con đập dễ bị tổn thương do thiên tai như động đất vì kích thước quá lớn. Khối lượng của hồ trữ nước khi lên mức định sẽ làm tăng nguy cơ gây địa chấn và sạt lở đất vùng lân cận.

Một trong những vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là tái định cư. Vùng đất lớn được thiết kế thành hồ trữ nước của đập Tam Hiệp, rộng tới hơn 1.000 km2 và trải dài hơn 600 km lên phía thượng nguồn, là quê hương của hơn 1,5 triệu người, sống ở 19 huyện thành và khu tự trị, 140 thị xã, 326 thị trấn và 1.351 ngôi làng. Tất cả đều phải di dời đến nơi ở mới.
 
Ảnh bên: Người bố bế con đang ngủ say, ngoái nhìn quê hương lần cuối trước khi lên đường tới khu tái định cư. (Ảnh: Btdxd)
Liệu họ có được cấp đủ tiền để bắt đầu cuộc sống trên mảnh đất mới? Làm thế nào để những người nông dân chân lấm tay bùn thích nghi được với môi trường đô thị? Các đô thị hiện đại liệu có đối phó được với làn sóng di dân ồ ạt?

Chính phủ Trung Quốc trấn an rằng tất cả những vấn đề trên đều đã được tính toán. Những vấn đề phức tạp và cấp bách trên đây có thể được làm sáng tỏ khi hiểu rõ bối cảnh lịch sử của công cuộc trị thuỷ và xây dựng các công trình thuỷ lợi ở Trung Quốc hàng nghìn năm qua.

Tư tưởng trị thủy

Những trận đại hồng thuỷ luôn là mối đe doạ lớn với an nguy của người dân, hiện hữu trong mọi truyền thuyết lịch sử Trung Hoa từ cổ chí kim. Sử sách ghi nhận người đầu tiên đưa ra giải pháp cho vấn đề này là nhà trị thuỷ tài ba – hoàng đế Hạ Vũ hay còn gọi là Đại Vũ, trong thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên.

Vốn là hoàng thân quốc thích, ông được các hoàng đế huyền thoại Nghiêu, Thuấn giao nhiệm vụ xây một hệ thống kênh mương thủy lợi tiêu thoát nước lũ nhanh chóng. Dự án đã khiến ông nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc được gọi là "Đại Vũ trị thủy". Dự án thành công, ông được lựa chọn trở thành người kế nhiệm của vua Thuấn, thành lập nên triều đại nhà Hạ, được sử sách coi là triều đại đầu tiên của Trung Quốc.

Tư tưởng di dân, dời núi, bố trí lại địa hình để kiểm soát dòng chảy tự nhiên luôn chi phối phương thức trị thuỷ ở Trung Quốc từ xưa đến nay. Có thể thấy rõ điều này trong công trình xây dựng Đại Vận Hà - kênh đào nhân tạo cổ nối liền hệ thống sông Dương Tử đến sông Hoàng Hà, hoàn thiện vào thời nhà Tuỳ, thế kỷ thứ 7. Hay công cuộc lao động trường kỳ, kéo dài nhiều thế kỷ, xây dựng các tuyến đê dài hàng trăm km dọc theo các con sông lớn nỗ lực ngăn chặn lũ lụt. Trong thời gian tại vị, hoàng đế nào để cho những trận lụt lớn xảy ra có cơ phải chịu sự rủi ro đánh mất "mệnh trời", thứ quyền lực tối cao đã ban cho hoàng đế quyền cai trị đất nước.

Xây dựng một con đập khổng lồ trên sông Dương Tử là tham vọng to lớn của mỗi nhà lãnh đạo Trung Hoa trong kỷ nguyên hiện đại, bắt đầu với lãnh đạo đầu tiên của nước Cộng hòa Trung Quốc Tôn Trung Sơn.

Ngay cả Mao Trạch Đông, trong bài thơ cảm tác năm 1956, đánh dấu lần bơi vượt sông Dương Tử, cũng đã tuyên bố tầm qua bài thơ: "Phía tây sông xây vách đá lớn. Đỉnh Vu sơn mây mưa dứt nẻo. Eo núi dâng mặt hồ. Thần nữ như còn đó. Thế giới, ồ, khác xưa!"

Khi đề chữ trên đường vào lăng mộ Hạ Vũ ở Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang vào năm 1995, chủ tịch Giang Trạch Dân, vốn xuất thân là một kỹ sư công trình, hiểu ra nguồn gốc sâu xa của sự tin tưởng và tôn kính mà chúng dân dành cho Hoàng đế Hạ Vũ. Sẽ chẳng có lời khen nào giá trị hơn khi được so sánh với đấng minh quân như Hạ Vũ. Cũng vì lý do đó mà báo chí truyền thông tung hô ông Giang như "Hạ Vũ thời đại".

Công cuộc tái định cư gây nhiều tranh cãi

Kế hoạch xây dựng đập Tam Hiệp có từ cuối những năm 1950, nhưng do biến động của Công cuộc Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa, nên bị xếp lại khá lâu và chỉ được nhắc lại khi Đặng Tiểu Bình lên chính sách cải cách và mở cửa vào cuối những năm 1970. Một con đập nhỏ hơn được xây dựng thí điểm ở vùng hạ lưu Cát Châu Bá (Gezhouba) thuộc Nghi Xương, chuẩn bị cho mục tiêu chính.

Việc xây dựng đập Tam Hiệp vấp phải không ít chỉ trích của các chuyên gia hàng đầu. Những người phản đối như nhà báo kiêm kỹ sư Đái Tình đã xuất bản cuốn sách đưa ra chỉ trích của các nhà khoa học Trung Quốc đối với dự án này. Hay khi thủ tướng Lý Bằng thông qua việc chấp thuận xây dựng con đập vào Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc năm 1992, một phần ba tổng số đại biểu bỏ phiếu chống lại kế hoạch này - mức bất đồng chính kiến chưa từng có.

Mặc dù nhóm phản đối thừa nhận, kể từ khi con đập được xây dựng, chưa thấy lặp lại trận lũ thảm khốc trên sông Dương Tử như năm 1998, cướp đi sinh mạng của hơn 3.500 người. Nhưng hậu quả của chương trình tầm cỡ nhằm tái định cư người dân lại đang gây nhiều tranh cãi hơn.

Không phải tất cả người dân đều hài lòng khi rời xa những ngôi làng lạc hậu để đến ở trong những ngôi nhà mới được cung cấp nước máy và lò sưởi. Đa phần phải nỗ lực rất lớn để thích nghi với cuộc sống mới, cách xa nơi chôn nhau cắt rốn tới hàng trăm km, và cư dân thì không thể hiểu được các phương ngữ mà họ sử dụng. Hơn thế nữa, còn xuất hiện những khiếu nại về cấp thiếu tiền bồi thường hay biển thủ công quỹ tái định cư.

Tiềm năng

Trung Quốc đất đai rộng lớn, với những con sông có thuỷ năng dồi dào và nhu cầu tiêu thụ năng lượng cực lớn, sẽ thật lãng phí nếu không tích cực tận dụng nguồn năng lượng tái tạo tự nhiên để duy trì tăng trưởng kinh tế.

Trung Quốc, về mặt lý thuyết có nguồn tài nguyên thủy điện lớn hơn bất cứ nơi nào trên thế giới - khoảng 380 gigawatt, tương đương với hàng trăm nghìn nhà máy điện hạt nhân cỡ trung bình - nhưng đến nay mới chỉ khai thác được khoảng một phần tư. Trung Quốc đặt mục tiêu sử dụng 15% năng lượng từ các nguồn năng lượng tái tạo vào năm 2020, thay thế các nguồn nhiên liệu truyền thống và giảm lượng khí thải cacbon xuống 40-45%. Do đó, phát triển thủy điện được xem là phương thức cốt yếu.

Trong lịch sử, sông Hoàng Hà vốn để lại ấn tượng sâu sắc hơn về tâm lý đối với người Trung Quốc nhiều hơn là sông Dương Tử. Được coi là "cái nôi của nền văn minh Trung Quốc", sông Hoàng Hà và các chi lưu gánh trọng trách đem nước tưới cho vùng bình nguyên phía bắc Trung Quốc, vùng đất phù sa bồi đắp cung cấp cho Trung Quốc hơn một nửa sản lượng lúa mì và một phần ba sản lượng ngô. Đồng thời, sông Hoàng Hà cũng là "nỗi thống khổ của Trung Quốc", với những trận lụt thảm khốc trong quá khứ giết chết hàng triệu người.

'Cuộc cách mạng' với dòng sông

Sông Hoàng Hà được chủ tịch Mao Trạch Đông quan tâm phát triển ngay sau khi lên nắm quyền năm 1949. Chính phủ phát động chiến dịch được cho là ngông cuồng - xây dựng các đập thuỷ điện theo cách được miêu tả là một trận chiến chinh phục thiên nhiên. Tờ Nhân dân Nhật Báo nói về công cuộc trị thuỷ sông Hoàng Hà như là truyền thuyết kể về trận chiến chinh phục long vương: các công trình dự án kỹ thuật sẽ "đánh vảy, chặt vuốt và bẻ răng của con rồng độc ác".
Cách dự án đập Tam Hiệp 700 km về phía bắc, đập Tam Môn chặn dòng sông Hoàng Hà ở nơi tiếp giáp hai tỉnh Hà Nam và Sơn Tây, được xây dựng trong thời kỳ Mao Trạch Đông từ nửa thế kỷ trước. (Ảnh: Tripdv)
Tam Môn là đập nước lớn nhất được xây dựng trên sông Hoàng Hà. Vị trí được đánh giá là vô cùng thuận lợi để xây đập, đúng như tên gọi Khe núi có ba cửa, lòng sông được chia thành ba dòng kênh chính bởi các đảo nhỏ, giúp rút ngắn khoảng cách chặn dòng. Công cuộc xây dựng bắt đầu vào mùa xuân năm 1957 do kỹ sư Liên Xô giúp đỡ.

Lý luận đưa ra là con đập sẽ giữ lại hầu hết phù sa, ngăn chặn sự bồi lắng ở hạ lưu gây ra ngập lụt cho vùng đồng bằng hai bên bờ sông. Dòng Hoàng Hà khi đó sẽ không mang nặng màu hoàng thổ phù sa, mà hoàn toàn ứng nghiệm với lời tiên tri cổ xưa "Thánh nhân xuất, Hoàng Hà thanh" (Thánh nhân xuất hiện, Hoàng Hà sạch trong).

Sự phi lý của niềm tin này sớm trở nên rõ ràng. Bùn bắt đầu tích tụ tại thành đập với tốc độ đáng báo động, và chỉ tới năm 1962, công suất hồ chứa nước của đập Tam Môn đã giảm đi một nửa. Ngay cả sau quá trình cải tạo mở rộng từ năm 1965 đến năm 1973, gần 40% công suất tích tụ phù sa của đập đã được sử dụng hết trong 18 năm đầu hoạt động, trong khi, năng lượng thủy điện được tạo ra lại ít hơn nhiều so với dự đoán ban đầu. Năm 2004, một trong những kỹ sư tham gia vào việc thiết kế xây dựng đập Tam Môn đã can đảm thừa nhận trên truyền hình Trung Quốc rằng con đập là "một sai lầm".

Mặc dù vậy, không thể nói rằng công cuộc trị thuỷ của Trung Quốc chỉ nhằm đánh bại sức mạnh thiên nhiên, xây dựng những đại công trình chặn dòng sông hung dữ. Kỳ quan trị thuỷ cổ tại Đô Giang Yển nằm trên sông Mân, Tứ Xuyên, được nhà Tần xây dựng vào khoảng năm 256 trước Công nguyên ngày nay vẫn được sử dụng giúp tưới tiêu hơn 5.300 km² đất nông nghiệp.

Được xây dựng bằng tài năng của quan khâm sai đại thần Lý Băng hơn 2.000 năm trước, công trình hạ tầng thuỷ lợi Đô Giang Yển có mục đích rõ ràng khai thác dòng nước sông Mân để tưới cho vùng bình địa của Thành Đô. Lý Băng đã thực hiện việc phân chia dòng chảy của con sông ra thành hai, để cho dòng nước lớn tiếp tục chảy bình thường, còn dòng kia nhỏ hơn dẫn nước chảy vào tưới cho ruộng đồng xung quanh.

Sự thành công của Đô Giang Yển không chỉ thể hiện ở việc công trình vẫn phát huy tốt công dụng dẫn nước tưới cho đồng ruộng đến nay, mà còn do thiết kế hợp lý, cảnh sắc tuyệt đẹp mà công trình này tạo nên. Vùng đất này khí hậu có bốn mùa, thiên nhiên tươi đẹp, núi cao thấp thoáng ẩn hiện, công trình thủy lợi kỳ vĩ càng góp phần làm cho khung cảnh trở nên ngoạn mục. Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc UNESCO đã công nhận Núi Thanh Thành và công trình thủy lợi Đô Giang Yển là Di sản Văn hóa Thế giới năm 2000.
Hệ thống thủy lợi Đô Giang Yển, một mặt, được coi là kiệt tác vĩ đại tạo phúc cho dân, được xây dựng trong sự hài hòa với thiên nhiên, mặt khác, còn là bàn đạp chiến lược giúp nhà Tần chinh phục nước Thục (vùng đất Tứ Xuyên ngày nay) - chiến thắng khởi đầu cho quá trình thống nhất đất nước Trung Quốc rộng lớn dưới sự khắc nghiệt, chuyên quyền của Tần Thủy Hoàng. (Ảnh: Wikipedia)
Tuệ Lâm

(VnExpress)  

Bài đăng phổ biến