Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Câu chuyện nước của Singapore

Ashui.com- Đặt vấn đề nguồn cung cấp và quản lý nước ở vị trí trung tâm trong chính sách phát triển đô thị, Singapore đã thành công với chiến lược giành quyền độc lập - tự chủ về cung cấp nước.


Tháng 2 năm 1942 trong cơn bão lửa chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi quân đội Nhật bao vây Singapore, họ lập tức cho nổ tung các đường ống dẫn nước từ bang Johor của Malaysia đến Singapore.

Người Nhật biết rất rõ rằng nếu không có nước từ bên ngoài, quân Anh phòng thủ Singapore - thuộc địa này lúc bấy giờ được xem là tiền đồn “bất khả xâm phạm” của Anh tại Đông Nam Á - không đánh cũng hàng vì hai hồ chứa nước duy nhất chỉ đủ dùng không quá hai tuần lễ.

Kể lại câu chuyện ngày xưa, Lý Quang Diệu buông lời bình luận: “Binh lính khát nước thì làm sao mà chiến đấu!".

Câu chuyện thứ hai liên quan đến chủ đề “nước” của ông Lý Quang Diệu xảy ra chỉ ít ngày sau khi đảo quốc này tách khỏi Liên bang Mã Lai cuối tháng 8 năm 1965. Khi ấy Thủ tướng Malaysia, ông Tunku Abdul Rahman, tuyên bố với cao uỷ Anh tại Singapore rằng: “Nếu Singapore không làm theo ý tôi, tôi sẽ khóa van dẫn nước”. Lời nói này của ông Rahman đến tai ông Lý, lúc đó là thủ tướng 42 tuổi đã cầm quyền được sáu năm của nước Singapore non trẻ.

Ông Lý bảo rằng cả hai câu chuyện trên đã thôi thúc quyết tâm giành độc lập về nguồn nước cho Singapore của ông ngay từ những ngày đầu tiên tách khỏi Liên bang Mã Lai.

Lòng khát khao độc lập đó đã khiến Singapore luôn luôn đặt vấn đề nước vào vị trí trung tâm trong các chính sách phát triển đô thị của họ.

Nhưng, lúc ấy, với đảo quốc này, sự độc lập về nguồn nước thật sự là một thách thức tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Trước một cử tọa đông đảo đến từ nhiều nước trong buổi chiêu đãi bên lề Tuần lễ Nước Quốc tế Singapore (Singapore International Water Week), ông Lý nói mình không tin rằng đó là một thách thức không bao giờ có thể vượt qua. “Tôi chưa bao giờ tin rằng điều đó mãi mãi không thể xảy ra. Sẽ có lúc, ở một nơi nào đó, kỹ thuật sẽ giúp gần như giải quyết được vấn đề”.

Hơn bốn thập kỷ đã trôi qua, nước vẫn là vấn đề sống còn của Singapore trên tiến trình phát triển. Tuy nhiên, 4,6 triệu người Singapore ngày nay có thể tự tin nói rằng chỉ cần với tay mở khóa vòi nước, họ đã có đủ nước dùng cho nhu cầu công nghiệp và dân sinh của một nền kinh tế có tổng sản lượng quốc nội (GDP) năm 2007 lên đến hơn 161 tỉ đô la Mỹ (để tiện so sánh, GDP của Việt Nam năm 2007 khoảng 70 tỉ đô la Mỹ).

Ngày nay, nhu cầu nước hàng ngày của Singapore vào khoảng 1,6 triệu mét khối (con số này của TPHCM là 2,5 triệu mét khối) được cung cấp từ bốn nguồn mà người Singapore gọi là “bốn vòi nước quốc gia” (four national water taps), gồm nước nhập từ Malaysia, nước từ các khu vực thu nước thiên nhiên, nước tinh khiết lọc từ nước thải (người Singapore đặt tên là Newater), và nước lọc từ nước biển.

Theo các tài liệu không chính thức, nước nhập từ bang Johor hiện cung cấp khoảng một phần ba nhu cầu nước của Singapore. Tự thân con số này cũng thật ấn tượng vì chúng ta đã biết trước đây Singapore gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nước nhập khẩu qua câu chuyện của cựu thủ tướng Lý Quang Diệu.

Dưới sự dàn xếp của người Anh, Singapore đã ký với Malaysia hai hiệp ước song phương riêng rẻ về việc nhập nước. Hai thỏa thuận này sẽ hết hiệu lực lần lượt vào năm 2011 và năm 2061. Chính phủ Singapore có vẻ cũng đã đủ tự tin vào việc tự cấp nguồn nước cho mình vì họ không ký lại hiệp ước sắp hết hạn năm 2011.

Bốn thập kỷ trước đây thật khó hình dung có ngày nước thu từ nguồn thiên nhiên (nước mưa, sông, suối...) cung cấp khoảng ½ nhu cầu nước của Singapore. Ngày nay, phân nửa diện tích đất Singapore đã trở thành khu vực thu nước thiên nhiên với hệ thống ống dẫn riêng biệt tách khỏi hệ thống nước thải. Với 14 hồ chứa nước ngọt và hai bể chứa nữa sắp sửa hoàn thành, năm 2009, diện tích khu vực thu nước sẽ chiếm đến hai phần ba diện tích Singapore.

Một phần quan trọng trong quá trình giành “độc lập về nguồn nước” là Newater theo cách gọi của người Singapore. Thực ra, Newater chẳng qua là nước “siêu tinh khiết” có được từ hệ thống nhà máy lọc nước thải. Nhờ các kỹ thuật lọc qua màng hiện đại, Newater đạt các tiêu chuẩn tinh khiết cao hơn hẳn nước máy ở Singapore vốn đã đạt tiêu chuẩn nước uống.

Nhờ độ tinh khiết của mình, Newater được các nhà kỹ nghệ sử dụng công nghệ cao ưa chuộng, như trong ngành công nghiệp điện tử và dệt nhuộm. Mỗi ngày khoảng 23.000 mét khổi Newater được hòa vào hệ thống cấp nước trên toàn Singapore. Trong diễn văn đọc tại lễ khai mạc Tuần lễ Nước Quốc tế Singapore, Thủ tướng Lý Hiển Long cho biết Newater hiện đáp ứng khoảng 10% nhu cầu nước của Singapore. Theo tờ Straits Times, tỷ lệ này có thể sẽ tăng lên đến 30% trong vòng 10 năm.

Cũng quan trọng không kém là kỹ thuật lọc nước biển để có nước ngọt với quy mô lớn. Ba năm trước, Singapore khánh thành nhà máy lọc nước biển Singspring với công suất 136.000 mét khối mỗi ngày, tức là gần 10% nhu cầu nước của đảo quốc này. Với vốn đầu tư khoảng 200 triệu đô la Singapore (khoảng 147 triệu đô la Mỹ), đây là nhà máy lớn nhất trong khu vực.

Nhưng theo PUB (Public Utilities Board), cơ quan quản lý nguồn nước quốc gia Singapore, tạo và quản lý tốt nguồn cung cấp nước chỉ là một vế của phương trình nước. Vế còn lại, quản lý nhu cầu sử dụng nước, cũng quan trọng không kém.

Trong bản báo cáo của mình, tiến sĩ Cecilia Tortajada, Phó giám đốc Trung tâm Quản lý Nước Thế giới thứ ba (Third World Center for Water Management) có trụ sở ở Mexico, cho rằng Singapore “thực hiện chính sách quản lý việc sử dụng nước một cách toàn diện đã được tính toán kỹ lưỡng”. Đó là việc Chính phủ Singapore đưa ra các kế hoạch khác nhau nhằm khuyến khích công dân của mình tiết kiệm nước.
Minh họa vòng tuần hoàn quản lý nước của Singapore
Một phần của các kế hoạch này là việc sử dụng cách tính giá nước lũy tiến. Tuy chuyện này cũng chẳng xa lạ gì đối với Việt Nam, cách tính của người Singapore có vài khác biệt. Chẳng hạn, cho đến trước tháng 7 năm 2000, Singapore vẫn áp dụng ba mức giá khác nhau cho tiêu thụ nước sinh hoạt gia đình: từ 1 đến 20 mét khối, 20-40 mét khối và trên 40 mét khối (TPHCM cũng đang áp dụng cách làm này). Tuy nhiên, từ tháng 7 năm 2000, Singapore chỉ còn 2 mức giá: từ 1-40 mét khối và trên 40 mét khối.

Tưởng cũng xin nhắc lại, nước sinh hoạt ở TPHCM hiện có giá 2.700 đồng cho 4 mét khối đầu tiên/đầu người; 5.400 đồng/mét khối cho đến 6 mét khối; và 8.000 đồng/mét khối khi sử dụng trên 6 mét khối. Trong khi đó, GDP đầu người của Singapore khoảng 35.000 USD, và TPHCM khoảng 2.200 USD.

Chính phủ Singapore cũng xoá bỏ luôn sự sai biệt về giá cho khu vực nước sinh hoạt và công nghiệp. Từ năm 2000, giá thống nhất cho 1 mét khối nước sử dụng là 1,17 đô la Singapore. Nếu sử dụng trên 40 mét khối nước sinh hoạt, khách hàng phải trả 1,4 đô la Singapore.

Giá nước cho 20 mét khối đầu tiên tăng từ 56 xu Singapore trong tháng 7 năm 1997 lên 117 xu tháng 7 năm 2000. Giá một mét khối nước nếu sử dụng trên 40 mét khối cũng tăng tương ứng từ 177 xu lên 140 xu.

Ngoài cách tính giá nước lũy tiến, Singapore còn áp dụng hai loại thuế và phí đánh lên lượng nước tiêu thụ: thuế bảo vệ nguồn nước (water conservation tax) và phí sử dụng nước (water-borne fee).

Thuế bảo vệ nguồn nước nhằm thúc đẩy việc tiết kiệm nước tại Singapore. Từ tháng bảy năm 2000, thuế này là 30 xu cho mỗi mét khối tiêu thụ.

Còn phí sử dụng nước là công cụ giúp chính phủ trang trải phí tổn xây dựng, bảo trì các hệ thống xử lý nước thải. Từ tháng bảy năm 2000, phí này là 30 xu cho mỗi mét khối tiêu thụ.

Các quan chức Singapore cho rằng việc tính đúng, tính đủ giá thành của nước cũng như áp dụng các sắc thuế đã làm giảm đáng kể lượng nước tiêu thụ tại đảo quốc này, trong hộ gia đình cũng như toàn nền kinh tế.

Lượng nước tiêu thụ hàng tháng của mỗi hộ gia đình tại Singapore đã giảm từ 21,7 mét khối năm 1995 còn 20,5 mét khối năm 2000 và 19,3 mét khối năm 2004. Tương tự, lượng nước tiêu thụ hàng ngày trên đầu người cũng giảm từ 172 lít năm 1995, xuống còn 165 lít năm 2000 và 160 lít năm 2004.

Một điều khác thiết tưởng cần phải nhắc đến trong việc quản lý việc tiêu thụ nước ở Singapore là hiệu quả của việc giảm tỷ lệ thất thoát nước. Hiện nay, tỷ lệ thất thoát nước ở Singapore được kéo xuống mức 4,6%, tương đương với tỷ lệ tại Nhật Bản, vốn được xem là dẫn đầu thế giới. Còn ở TPHCM, giới hữu quan ra chỉ tiêu phấn đấu đưa tỷ lệ thất thoát nước từ 38% hiện nay xuống còn 25% năm 2025.

Đứng trước nguy cơ một thế giới bắt đầu khát nước như nhiều chuyên gia đã dự báo, câu chuyện nước của Singapore chắc cũng nhắc nhở chúng ta được ít nhiều. Với họ, độc lập về nước cũng quan trọng không kém độc lập dân tộc.

Sơn Tùng

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Inclinometers

Applications
Inclinometers are used to monitor subsurface movements and deformations. Typical applications include:
Detecting zones of movement and establish whether movement is constant, accelerating, or responding to remedial measures.
Checking that deformations are within design limits, that struts and anchors are performing as expected, and that adjacent buildings are not affected by ground movements.
Verifying stability of dams, dam abutments, and upstream slopes during and after impoundment.
Monitoring settlement profiles of embankments, foundations, and other structures (horizontal inclinometer).
Inclinometer Casing
An inclinometer system has two components: (1) inclinometer casing and (2) an inclinometer measurement system.
Inclinometer casing provides access for subsurface measurements. Grooves inside the casing control the orientation of the inclinometer sensor and provide a uniform surface for measurements.
Inclinometer casing is usually installed in a borehole. It can also be embedded in fill, buried in a trench (horizontal inclinometers), cast into concrete, or attached to a structure.

Portable Measurement Systems
Portable measurement systems include a probe, cable, and readout. Portable systems are economical because they can be carried from site to site. They are accurate because the entire length of the casing is measured twice in each survey.
The first survey establishes the initial profile of the casing. Subsequent surveys are compared to the initial. Changes in the profile indicate that movement has occurred.
Slope Indicator offers the Digitilt Classic System, which has been the world standard in precision and reliability for many years, and the Digitilt AT System, which takes advantage of newer technologies.
Inclinometers generate more data than most other types of sensors. For example, an ordinary survey may generate several hundred data points. Over time, tens of thousands of data points must be reduced, compared, plotted, and archived. Slope Indicator's DigiPro2 Software is designed to speed these tasks.

In-Place Measurement Systems
In-place measurement systems are installed when continuous monitoring is required for construction control or safety.
The in-place system consist of one or more dedicated sensors connected to a
data logger. The sensors are positioned to span the zones where deformation is likely to occur.
In-place inclinometer systems generate even more data than portable systems, and often the data must be processed and distributed immediately. Slope Indicator's Atlas web-based monitoring performs this task, automatically processing the readings, checking for alarms, and generating graphs and reports.

Spiral Checking
A spiral sensor provides readings that can be used to correct inclinometer data obtained from spiraled casing. Spiral surveys are recommended when the installation is very deep, when inclinometer readings indicate movement in unlikely directions, or when difficulties were experienced during installation
http://www.slopeindicator.com

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Học thuật

Học thuật

CÔNG NGHỆ MỚI
BÊ TÔNG
CỌC VÁN THÉP
GIA CỐ ĐẤT NỀN

Plaxis Guide - P1

Th theo nguyn vng ca nhiu thành viên, xin m cái tóp pc này thay cho vic m lp hc đ gii thiu, hướng dn s dng B Nát Xích trình đ nâng rt cao. Vi cách này thì nhiu bn vùng sâu vùng xa, eo hp v thơi gian vn có th tranh th hc được. Do tính cht đc thù ca Tp pc này và cũng đ tránh làm loãng gây nh hưởng đến s theo di ca các bn nên cái Tóp pc này s ch dành cho nhng người cùng tham gia hướng dn mà thôi.
Mong các bn đã biết v B Nát Xích cùng tham gia vi t đ cho t bt ...sướng. Sướng quá là không chu được.


Bài 1. Ai không nên hc B Nát Xích ???
Nghe người ta nói B Nát Xích hay mà vi b thi gian ra đ nghiên cu, đ hc s dng thì d nhanh chán B Nát xích lm lm.
Đã có bao gi các bn theo dõi các cháu mu giáo lp ăn cháo s dng cái máy tính tay cng tr nhân chia chưa. Các bn s thy các cháu đó s dng cái máy tính đó như thế nào khi mà chưa biết các phép tính cng tr nhân chia là cái gì, có th măm măm được không.

Các bn được hc s dng các phn mm SAP, CAD, ETAB, XETAP ... vào năm th my ca đi hc. Ti sao người ta không dy các phn mm này vào năm th nht mà phi đi đến my năm sau mi dy.

Cái B NÁT Xích này cũng vy. Đ s dng nó thì các bn cn có kiến thc v cơ hc đt và nn móng công trình. Nếu không có thì s ging như các cháu mu giáo lp ăn cháo nghich máy tính mà thôi. Đng hy vng các phn mm máy tính s lp các l hng kiến thc. Chng cn hiu biết kiến thc cơ bn nhưng vn chy được phăm phăm thì rt ...kinh s.

Tt nhiên là chng ai gii tt c các vn đ trong Cơ hc đt nn móng. Mi người ch có th biết mt phn nào đó mà thôi. Vì vy, các bn vn có th s dng B Nát xích ngay c khi bn chưa là chuyên gia mà bn mi ch là sinh viên khi đã biết tính móng nông, tính lún đơn gin. Tt nhiên là s ch s dng hn chế trong nhng phn mà mình biết mà thôi. Nếu nhng cái kiến thc ti thiu này mà không biết thì tt nht là chuyn qua chơi Đế chế II thì hay hơn.

Như vy, là các bn đã biết ai không nên hc cái anh B Nát xích này cho nó đ tc bc v sau.


Bài 2. Cu to các b phn chân tay ming và ...ca B nát xích.

Sau khi cài đt xong cái anh B nát xích thì có được cái anh B Nát xích trong máy. Còn làm thế nào đ cài đt và kiếm cái anh này đâu thì mua hoc là ...t không biết đâu nhé.

Đ cho d và tin theo dõi đây thì các bn tm chơi cái anh 7.2 B r phc sn nn. Nm tht vng mt anh thì các anh sau này cũng thế c.

Lúc này trên máy ca bn trong mc Plaxis s có 4 phn như sau:

Phn 1 là đ nhp s liu
Phn 2 là đ chy hoc đi hoc bò hoc chơi chương trình
Phn 3 là đ xut kết qu
Phn 4 là đ làm gì thì đ t ...đc thêm đã.

Th t thc hin thì xong 1 đến 2, 3 và 4.

Nếu ti các bước sau thy bước trước chưa n thì quay li bước trước mà làm li.

Lưu ý: Bước 2 ca nó thì rt mt, không ging my cái anh phn mm khác vào xong là chy. Bước 2 ca cái anh B Nát xích này nó chy cà git, cà git không ging chy mà ging bò hoc đi lng thng thì nhiu hơn. Khi thc hin cái bước hai này thì người thc hin thy mt mi rt nhiu. Ban đu có th s hơi b ...ln thn. Vì vy, trước khi chy cái phn 2 thì nên...ung nước.

Bài 3.1. Nhp s liu ban đu

Nếu táy máy bm vào cái s 1 được nêu bài trên thì s có cái này:
Cn khai báo tên tui này n ca bài toán cn gii bng cách bm vào File/New s cho ra my th.
Đin các giá tr vào đy các bng.
Bng có 2 phn là Project và dimensions.

Project thì :
Trong cái ch "Model" thì tuỳ bài toán mà chn là Plane Strain hoc Axisymmetry. Còn chúng là gì thì t cóc biết. T tìm hiu ly
Cái ch Elements có 2 la chn là 6 cái bánh Node hoc 15 cái bánh Node. Đói cn ăn nhiu, n k thì chn 15. ăn chơi chơi thì chn 6. Ti sao chúng nó không cho chn khác đi nh. 7, 8 hay 100 Node thì s thích hơn ch nh.

Dimensions thì
Cn khai báo cho đ các thông tin đây. Cái trái phi trên dưới là gii hn vmin vt liu mà ta nghiên cu. Nếu ly bé quá thì cái vùng biên ca gii hn này s nh hưởng làm thay đi kết qu tính toán. Nếu ly ln quá thì kích thước các phn t s to gây sai s ln cho kết qu. Vì vy, cn lưu ý vic khái báo cái trái phi trên dưới sao cho ...hp lý. Còn thế nào là hp lý thì các bn t đi mà xác đnh ly.
Nguyên tc đ cho hp lý là: cái trái phi trên dưới này nh đến mc có th sao cho nếu có m rng vùng gii hn rng lên thêm thì không làm thay đi đáng k kết qu cui cùng.

Như vy là, đ biết xác đnh cái trái phi trên dưới này thế nào là hp lý thì cn có kết qa cui cùng trong khi chưa chy chương trình tính toán tí to nào. Vy thì, đu tiên thì chn ba, sau này thy chưa hp lý hoc sai thì sa li cái trái phi trên dưới này cho đến khi nó hp lý thì thôi. Lanh thì làm li ít, không lanh thì làm đi làm li nhiu. Mãi thì cũng s t có kinh nghim và ln sau s chn nhanh hơn. Còn làm mãi mà vn chưa chn được thì ...b đi không sa, không làm na mà ch cn rút kinh nghim sâu sc và chuyn sang chơi Game.

Cui cùng thì nh đến OK. Nếu không nh đến OK thì s phin lm không tin thì c th không bm OK mà xem.

Thế là xong phn khai báo chung chung. Đ chnh sa thay đi nhng thông tin nêu trên thì bm File/General settings.

Tm dng đây. Mai chơi tiếp- follow: Ketcau.com.

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Nguyên tắc chọn vật liệu

ashui.com- Lựa chọn vật liệu cho công trình là một yếu tố rất quan trọng trong cả quá trình thiết kế và thi công. Trên thị trường hiện nay, vật liệu rất đa dạng và thông tin rất nhiều, nên lựa chọn lại vừa dễ mà cũng lại khó... Lựa chọn đúng, phù hợp chủng loại vật liệu sẽ làm công trình đẹp hơn, bền hơn, và ngược lại; có thể làm xấu đi nếu sự lựa chọn sai lầm, không phù hợp. 


Mặc dù sử dụng vật liệu loại nào, như thế nào đã được kiến trúc sư định hình, có ý tưởng ngay từ khi thiết kế phương án, thiết kế kỹ thuật. Song tới lúc thi công, vẫn thường có những điều chỉnh, thay đổi nhất định. Có nhiều nguyên nhân, và một trong những nguyên nhân đó là việc... không tìm được tiếng nói chung với chủ nhà.
Đèn chùm là mt yếu t quan trng trong phong cách kiến trúc c đin châu Âu (nh trái) / La chn gch p lát cn xem xét tương quan, t l phù hp trong không gian và b mt din tích p lát (nh phi).
Phù hợp công năng sử dụng
Vật liệu sử dụng trong công trình kiến trúc, điều đầu tiên phải phù hợp công năng; đây là nguyên tắc quan trọng nhất. Mỗi không gian, mỗi phòng chức năng, mỗi loại cấu kiện, bộ phận kiến trúc có những vị trí và vai trò khác nhau, cần thiết tới các loại vật liệu có đặc tính cơ – lý – hoá phù hợp. Gạch lát sàn ở nơi có nước (sân, phòng vệ sinh) yêu cầu đầu tiên phải chống trơn trượt, rồi mới tới các vấn đề khác như hoa văn, màu sắc...

Phù hợp không gian sử dụng
Để tạo nên sự hiệu quả đúng chức năng, thì các loại vật liệu cũng cần phù hợp. Ví dụ như phòng khách cạnh sân vườn tầng trệt cần sự thoáng đãng, thoải mái, gần gũi thiên nhiên, có thể dùng các loại vật liệu tự nhiên; phòng sinh hoạt chung trên lầu mang lại sự gần gũi; phòng ngủ cần tĩnh lặng, ấm áp; phòng nghe nhạc, giải trí cần sự ấn tượng...

Phù hợp phong cách kiến trúc – nội thất
Mỗi phong cách kiến trúc - nội thất đòi hỏi các loại vật liệu tương ứng và cách thức sử dụng vật liệu đúng. Phong cách hiện đại có mặt nhiều các loại vật liệu mới như kính, thép, inox...; phong cách cổ điển phương Đông có âm hưởng trầm của màu nâu gỗ với những chi tiết tinh xảo; phong cách dân gian thô mộc có sự góp mặt của các loại vật liệu tự nhiên như tre, gỗ, đá...

Phù hợp tỷ lệ
Tỷ lệ là một yếu tố quan trọng trong kiến trúc. Một số không gian cần sử dụng vật liệu có liên quan đến điều này, nhất là những bề mặt ốp lát. Diện tích một sàn, chiều cao bức tường, không gian của phòng cần những tỷ lệ phù hợp. Phòng vệ sinh thường nhỏ, nên chọn gạch ốp lát có kích thước vừa phải; không nên lớn quá, nếu tính toán chẵn viên thì càng tốt. Nếu sử dụng kích thước gạch lớn, ngoài việc không phù hợp tỷ lệ, thị giác, còn gây hư hao lãng phí do phải cắt bỏ nhiều. Một số loại bộ phận kiến trúc hiện nay được sản xuất tiền chế với nhiều loại kích thước, ví dụ như cửa đi; thì cũng cần căn cứ vào diện tích, chiều cao phòng, khoảng tường chèn cửa để lựa chọn kích thước phù hợp.

Tương quan hoà hợp với xung quanh
Một công trình được sử dụng rất nhiều loại vật liệu, trong nhiều không gian và các không gian đó có liên quan đến nhau. Để có một tổng thể hài hoà, thì cần lưu ý cả điều này.

Sự liên quan đó có thể ở bản thân trong mỗi phòng chức năng, trong phạm vi công trình; hay ra ngoài sân vườn, ngoài ngõ – đường phố. Cần thiết phải xem xét mối tương quan và bao cảnh xung quanh để lựa chọn vật liệu.

Thực ra, nguyên tắc cũng chỉ là nguyên tắc, là một phần chứ không phải là tất cả. Nhưng nó vẫn luôn cần thiết và không bao giờ là thừa.

Hương Anh - Ảnh: Hà Thành

Bài đăng phổ biến